Khởi đầu chuyến họp mặt và dõi theo bước chân của các nhà truyền giáo là sáng kiến của bok Tâm. Bok Tâm năm nay được về thăm quê và thăm nhà. Bok gợi ý anh em 62 họp mặt, thế là chúa đảo Hawai, Trần đình Cảnh, hưởng ứng ngay. Bok lên chương trình họp mặt CVK mồng 4 tết âm lịch ở Dak Mil rồi BMT. Nhưng tôi tưởng đó là những ngày họp măt riêng gia đình, nên mồng 6 tết, tức ngày 10 tháng 2 năm 2019 tôi mới lên BMT.Trước đó vợ chồng Thi, Kiêm và Cảnh đã lên họp mặt rồi.
Anh em sắp đặt rất hay: mướn một xe Limousine 16 chỗ do Chính Xi cù lù lái. Hơn 40 năm cầm volant, nhưng ở tuổi 70, Chính vẫn lái rất điêu luyện và lanh lẹ, chắc ít tài xế trẻ nào sánh kịp.
Sáng 11 tháng 2 chúng tôi khởi hành từ nhà Chính, có Cảnh, Lân. Ra Châu Sơn ghé Cà phê Cao Thượng, nhà Đậu Quang Khánh uống cà phê và gặp gỡ nhiều CVK khác: tay bắt mặt mừng và chúc năm mới bình an. Võ 67 làm hướng dẫn. Có thêm Tâm 66, người rừng, tham gia. Bỏ mặc 30 ha cà phê tại Dak Nong để đi nhởi với đàn anh 62. Tình thương mến thương. Tại đây có thêm bok Tâm, vợ chồng Thi và Kiêm từ Dak Mil lên. Ra khỏi Châu Sơn, chúng tôi đón thêm Thuyên (Tuyển). Đi qua Hà Lan đón Bẩy Tẹt. Mấy mươi năm rồi mũi vẫn không cao hơn tí nào.
Trực chỉ Pleiku. Buổi trưa chúng tôi được cha Vinh, Đức An, vẫn với nụ cười bất hủ, nụ cười “không thể nào quên”, tiếp đón nồng hậu: rượu ngon, thịt béo. Đầu bếp đặc biệt, điều từ Kontum lên. Tại đây chúng tôi đón vợ chồng Huệ và Ký. Từ tháng 9 /2018 trái tim Huệ đã tan nát. Sau khi mổ tim tại Sài gòn, hơn 4 tháng anh án binh bất động tại nhà, bác sĩ cấm tất tần tật: một thuốc lá, một cà phê, một bia, một rượu, một…, nay nghe họp mặt lớp 62, anh như sống lại, vì Chúa đã ban cho anh “một trái tim mới”(Ez 36,26). Anh vui mừng phấn khởi ra đi, tuy vẫn cần bà xã làm thiên thần bản mệnh theo sát.
Riêng bạn Ký, lúc này trông sao nhỏ, thấp và tóc bạc quá. (Bọn chúng tôi có đứa nào tóc không bạc). Năm 1962 Ký nhập chủng viện với chúng tôi. Nhưng sao còn bé mà đã khá “tốt bụng” nên có biệt danh là Monseigneur. Nhất là, Ký lại thường mang giầy đỏ nữa.
Ăn trưa xong, chúng tôi sang nhà Bok Do- lúc này là nhà Thăng Tiến- thăm cha tổng đại diện Nguyễn Vân Đông. Thầy trò gặp nhau sau nhiều năm xa cách. Thật vui mừng, xúc động.
Chúng tôi rời Đức An. Cha Vinh ra tiễn chúng tôi; ngài đứng một mình, chơ vơ bên cạnh một cây cột ngoài sân nhà thờ. Tôi chợt nhớ đến một câu thơ:
Lửa tắt, bình khô rượu
(Anh) em đã đi rồi, vui với ai.
[“Em ơi lửa tắt bình khô rượu,
đời vắng em rồi say với ai? Vũ Hoàng Chương]
Chiều tối chúng tôi hẹn với cha Truyền đến An“Khơ” ăn “dơ”, ăn “bơ”. Có Đinh Ơn từ Kontum lên nhập đoàn.
Sáng 12 tháng 2 chúng tôi dự lễ đồng tế trên cung thánh nhà thờ mới, khang trang do cha giáo Phạm Minh Công và giáo dân vừa xây dựng, trước khi ngài về hưu. Thánh lễ thật sốt sắng và thân tình, tôi xúc động, không cầm được nước mắt.
Sau khi ăn sáng, chúng tôi đi thăm nghĩa trang An Sơn, nơi chôn cất di hài của 442 giáo dân và cha sở Tống Viết Cơ, đã bị Văn Thân thiêu sống tại Quảng Bình.

Tại nghĩa trang cũ An Khê chúng tôi thăm mộ cha Đoàn Đức Thiệp. Ngài là giáo sư từ năm 1965 và là bề trên chủng viện Thừa sai Kon tum thay cha Phạm văn Lộc từ năm 1969 đến năm 1975. Bên cạnh mộ cha Thiệp là mộ cha Ngọc, cha sở tiên khởi và lâu đời nhất tại An Khê. Chúng tôi vái nhang và cầu nguyện cho các ngài.
Rời nhà thờ An Khê, chúng tôi đến Trạm Gò.
Trạm Gò cách An Khê chừng 10 cây số, đây là làng người kinh cuối cùng. Các thừa sai thường dừng chân tại đây trước khi lên Tây nguyên. Từ Trạm Gò nhìn sang hướng đông, ta thấy xa xa là Dốc Ván. Đó là một khe suối nằm giửa 2 ngọn núi thẳng đứng là núi ông Bình và núi ông Nhạc. Nhiều tài liệu kể lại rằng thày sáu Do và các nhà truyền giáo nhiều khi phải mất cả một ngày để đi qua khu vực này. Địa điểm Trạm Gò cụ thể chúng tôi đến thăm hiện tại là một con đường đất hẹp. Chúng tôi tưởng như thấy dấu chân dép mo của thày sáu Do đâu đây. Ai đó đọc lên vần thơ:
Thày sáu Do,
đi dép mo,
cầm đao to…
Nguyễn Huy Huệ, dẫu thở hắt ra, vẫn nối tiếp vần thơ:
Bước chân lò dò,
Leo lên Trạm Gò.
Thơ phú thế cũng là tiến bộ rồi. Còn nhớ lúc học 6e, thày Đông, sau khi dạy thơ lục bát, ra bài làm với câu 6 mở đầu:
Chiều hôm đón mát cổng làng…
Có bạn nào đó làm ngay câu 8: Tôi ngồi tôi đón anh chàng đi qua.
Xét về vần Bằng trắc thì chuẩn không cần chỉnh.
Để cho đúng nghĩa là đặt chân đến Trạm Gò, một số anh em đã bỏ giày ra, đi chân đất. Cũng là để bắt chước Môi Sê, coi trọng nơi đây là đất thánh (Xh 3,5).Tương truyền thời cha Ngọc làm cha sở An Khê, ngài có xây một nhà nguyện nhỏ trên lô đất cạnh con đường này, đã có lần đức cha Seitz đến ban phép thêm sức ở đây. Nhưng nay chủ nhân lô đất này đã dùng nền xi măng của nhà nguyện cũ làm chuồng bò. Có người đưa ý kiến giáo phận nên mua lại lô đất này làm di tích lịch sử truyền giáo.

Trạm Gò. Chuồng bò là nền nhà nguyện cũ.
Từ trái qua phải:H1. (ngồi): Đinh Ơn. (đứng):Huệ, Lan (vợ Huệ).
H2. Thi, bok Truyền, Lân, bok Tâm, Chính, Kiêm, Tâm (66) Tuyết (vợ Thi), Thuyên (Tuyển), một GD An Khê).
H3. Cảnh (Hawai), Bẩy (tẹt).
Rời Trạm Gò, chúng tôi tiến về chủng viện Làng Sông, nơi đức cha Cuénot đào tạo các nhà truyền giáo cho Tây nguyên. Chủng viện hiện thời đã được xây lại năm 1927, thay thế cho chủng viện cũ thô sơ từ khoảng giửa thế kỷ 19. Khuôn viên chủng viện khá rộng. Hai dẫy nhà lầu 2 bên, giữa là nhà nguyện. Hai bên lối vào có 14 cây gỗ sao hơn 200 tuổi sừng sững như những nhân chứng qua bao thế hệ, qua bao chế độ. Kiến trúc gothique rất “tây”, nhất là nhà nguyện, giống y hệt nhà nguyện ở Đại chủng viện thánh Giuse, Sàigòn. Không thể so sánh với nhà thờ gỗ và chủng viện thừa sai Kontum được. Dân CVK có quyền hãnh diện về điều này vì nhà thờ gỗ và chủng viện Kontum rất uy nghiêm nhưng hội nhập sâu đậm vào văn hóa Tây nguyên.
Chủng viện Làng Sông.
Chúng tôi cũng đi thăm bảo tàng nhà in Làng Sông
Nhà in này do Đức cha Eugène Charbonnier Trí thành lập. Đây là một trong 3 nhà in sách quốc ngữ đầu tiên ở VN, gồm: nhà in Tân Định (Sài Gòn), nhà in Ninh Phú (Hà Nội) và nhà in ở tiểu chủng viện Làng Sông. Tuy nhiên, nhà in này bị đốt phá năm 1885, dưới thời Cần Vương chống Pháp. Năm 1904, nhà in Làng Sông được Đức cha Damien Grangeon Mẫn cho tái thiết và được giao cho linh mục Paul Maheu làm giám đốc.
Bảo tàng còn lưu lại nhiều hình ảnh, đầu sách và tài liệu xưa quí. Trước 1975 Kontum ta cũng có một nhà in gần Hnam Trưng Cuénot. Tiếc rằng, nay không còn vết tích gì. Không biết có ai còn lưu lại được chút ít “dấu xưa” nào không?
Ra đến cổng chủng viện, chúng tôi thấy phía mặt trong cổng có 2 chữ Maria Duce. Các latiniste cãi nhau ỏm tỏi. Có người cho rằng bảng chữ viết thiếu chữ L, phải là Dulce mới đúng: Đức Maria dịu dàng. Cuối cùng thì nhờ ông Google, các giáo sư latinh đồng ý là Duce là người chỉ đường, người hướng dẫn.
Nhà thờ Gò Thị.
Đọc các tài liệu về truyền giáo Tây nguyên, chúng ta nghe nói nhiều về Gò Thị, nhưng nay chúng tôi mới được tận mắt thấy nhà thờ, được đặt chân tới đất thánh, nơi đức cha Cuénot đã trú ẩn, đã điều hành giáo phận và đặc biệt là hướng dẫn việc truyền giáo Tây nguyên. Tiếc rằng chúng tôi không đủ thời giờ ghé nhà thờ Vĩnh Thạnh, ghé nhà bà Huỳnh thị Lưu, nơi đức cha Cuénot bị bắt cùng mấy ông câu, ông biện và bà Lưu.
Nhà thờ Gò Thị
Đôi nét về thánh Cuénot Thể.
Thánh Stêphanô Thêôđorô THỂ (CUÉNOT), giám mục (+ 1861)
Ðức Cha Stêphanô Thêôđorô Thể chào đời ngày 08-02-1802 tại Bélieu nước Pháp, ngày 24-09-1825, ngài thụ phong linh mục. Theo ước nguyện từ nhỏ, ngày 23-06-1827, ngài xin gia nhập Hội Thừa Sai và được chỉ định đi truyền giáo tại Ðông Dương. ngày 02-05-1829, ngài đến Chủng Viện Lái Thiêu (Nam Kỳ). Hăng say và tận tụy trong việc truyền giáo, ngày 03-05-1835, ngài được tấn phong Giám mục hiệu tòa Métellopolis phụ tá đặc trách Nam Bộ. Trước sắc chỉ cấm đạo của vua Minh Mạng đề ngày 03-10-1839, ngài vẫn hăng say và tận tụy với chức vụ, duy trì những tổ chức và cổ vũ việc truyền giáo, đặc biệt chú tâm đào tạo các linh mục bản xứ. Thành quả công việc của ngài thật lớn lao. Kể từ năm 1842, số người trở lại mỗi năm trung bình là 1.000. Cũng do sự vận động của ngài, Tòa Thánh đã chấp thuận thiết lập nhiều giáo khu mới, như việc chia Nam Bộ thành hai địa phận miền Ðông và Tây (1844), sau đó thêm địa phận miền Nam (1850).
Tháng 11 năm 1847, vua Tự Ðức lên kế vị và chính sách cấm đạo càng gay gắt hơn từ năm 1855. Nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân bị cầm tù. Cuối cùng, ngày 29-10-1861, ngài bị bắt. Vì kiệt sức, ngài ngã bệnh, và đêm 14-11-1861, ngài đã qua đời tại nhà giam Bình Ðịnh. Mấy giờ trước khi án lệnh trảm quyết từ triều gửi tới…
























Mộ thánh An rê Nguyễn Kim Thông. Gò Thị.
Tại Tòa giám mục Kontum.
Nhà nguyện Chủng viện.
Trạm xá Cao Thượng
Nhà thờ Thăng Thiên với cha sở mới Nguyễn Tiến Trung.



