Thứ ba, sau Chúa Nhật XXXIII Thường Niên

« Con Người đến để tìm
và cứu những gì đã mất »
(Lc 19, 1-10)

  1. « Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su » (c. 1-4)
  2. Ông Gia-kêu

Chúng ta hãy nhìn ông Gia-kêu và tự hỏi : ông là ai ? Không cần phải đọc sách chuyên môn, hay phải có hoặc phải hỏi những bậc chuyên môn thông thái, nói cho chúng ta về tuổi tác, gia đình, hoàn cảnh xã hội, tôn giáo… của ông. Nếu là như thế, chúng ta không tự mình cầu nguyện với Lời Chúa được, vì phải « biết », và mình không có học nhiều để biết nhiều và biết hết ! Trong khi đó, Lời Chúa được truyền đạt cho chúng ta ngang bản văn, và những dòng chữ như thế đó, đủ sức mạnh và sức sống để lôi cuốn chúng ta. Thật vậy, theo lời kể của thánh sử Luca :

Ông đứng đầu những người thu thuế,
và là người giàu có.  (c. 2)

Trong xã hội và tôn giáo Do Thái, những người thu thuế bị coi là người tội lỗi, như họ xầm xì với nhau : « Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ ! » (c. 7). Và có lần Đức Giê-su nói : « Khốn cho các ngươi là kẻ người giầu có ! » (x. Lc 6, 24). Nhưng Chúa cũng nói, đối với Thiên Chúa, không gì là không có thể ! (x. Mc 10, 27). Vậy, còn tôi, tôi là ai ?

  1. « Xem cho biết Đức Giê-su là ai»

Ông Gia-kêu « đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có giầu có ». Nhưng ông lại có lòng ước ao « xem cho biết Đức Giê-su là ai » : 

Ông ta tìm cách để xem cho biết
Đức Giê-su là ai. (c. 2-3)

Vì vậy, chúng ta hãy quan sát thật kĩ hành trình tìm cách xem thấy Đức Giê-su của ông Gia-kêu : đoán biết đường đi của Đức Giê-su, ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung ! Và trong trường hợp của ông Gia-kêu, để thực hiện lòng ước ao biết Đức Giê-su là ai, ông đã phải vượt qua nhiều trở ngại : ông đã phải leo lên cây chờ cho Đức Giê-su đi ngang qua, bởi vì người thì đông, còn ông thì không được cao. Nhưng đó chỉ là khó khăn về thể lí ; cũng là quan trọng, nhưng không quan trọng bằng một khó khăn khác, đó là dư luận ; bởi vì ông bị mọi người khinh chê, xa lánh và bị coi là quân tội lỗi, như bài Tin Mừng thuật lại cho chúng ta : « Nhà người tội lỗi mà ông ấy (tức là Đức Giê-su) cũng vào trọ » (c. 7). 

Còn tôi, tôi có lòng ước ao này không, trong đời sống đức tin và hành trình ơn gọi của tôi, và nhất là trong « thời gian đặc biệt » này. Và tôi sống từng giờ, từng ngày như thế nào ? Cũng như Gia-kêu, chính chúng ta cũng phải vượt qua nhiều trở ngại của bản thân và của dư luận nữa để đến với Chúa. Vậy, đó là những khó khăn nào ? Tôi ý thức và có những nỗ lực nào để vượt qua, như ông Gia-kêu không ? Tôi cảm thấy bất lực ra sao ? Chúng ta hãy xin Chúa thêm sức, lôi cuốn chúng ta và ban cho chúng ta lòng mến Chúa.

  1. « Này ông Gia-kêu… » (c. 5-6)

Chúng hãy nhìn ngắm Chúa Giê-su và lắng nghe lời Người (như nói với chính mình) ; và quan sát ông Gia-kêu « tụt xuống và mừng rỡ » thật kỹ và thất lâu :

Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! ” Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.  (c. 5-6)

Đức Giê-su đi tới chỗ đó, dừng lại, ngước mắt nhìn lên và nói với ông Gia-kêu : Chúng ta hãy dừng lại để đo lường sự khác biệt : 

  • Ông Gia-kêu chạy tới phía trước, chỉ để xem Đức Giê-su, nhưng chính Đức Giê-su đi đến đúng « chỗ ấy », nghĩa là dưới gốc cây sung, và Người « nhìn lên ». Chúa đi đến đúng chỗ ông đang « ẩn nấp » và nhìn ông, và Người phải nhìn lên, vì ông đang ở « trên cao », còn Người, Người đang đi trên mặt đất !
  • Một đàng, ông Gia-kêu chỉ muốn xem thấy Đức Giê-su từ trên cao, nghĩa là từ xa và một cách vô danh ; đàng khác, Người ngỏ lời trước để thiết lập tương quan thiết thân, bất chấp sự khác biệt và bất xứng. 
  • Ông Gia-kêu chỉ muốn xem thấy Đức Giê-su thôi, và ông đã chọn một chỗ thích hợp : ở trên cao và vô danh, không ai thấy. Nhưng Ngài đã gọi ông « xuống mau đi », ra khỏi chỗ ông ẩn nấp. Và Đức Giê-su chọn ở lại với ông một cách nhưng không, khi ông còn đầy bất toàn, khi ông vẫn còn là chính ông, chưa được biến đổi. Đức Giê-su đặt lòng tin trọn vẹn nơi ông.

Chúng ta dường như cũng có nhiều chỗ ẩn nấp, những khu vực an toàn, những phần giữ lại để lỡ ra còn đường mà rút lui ! Vậy, tôi có nghe được lời này của Chúa nói với tôi không : « Này con, xuống mau đi (chú ý chữ « mau »), vì hôm nay Thầy phải ở lại nhà con » ?

Ông Gia-kêu vội tụt xuống và mừng rỡ đón tiếp Người. Tôi có đón tiếp Người không ? vội hay không ? và trong tâm tình nào ? (có thể nhớ lại cô Mác-ta đón tiếp Người vào nhà mình, trong Lc 10, 38-42).

  1. « Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này » (c. 7-10)

Trong phần này của bài Tin Mừng, chúng ta hãy lắng nghe : lời xầm xì của đám đông, lời của Gia-kêu và lời của Đức Giê-su.

Chứng kiến lòng thương xót của Đức Giê-su, luôn luôn có những lời « xầm xì », kêu trách, thậm chí chống đối, thay vì ca khen. Lời này có khi trỗi lên ngay trong lòng chúng ta, và nó đến từ Con Rắn, Sự Dữ, Ma Quỉ. Nhưng, như chúng ta thấy, ông Gia-kêu không chỉ vui mừng đón rước Đức Giê-su, nhưng còn thay đổi đời sống của mình một cách cụ thể và tận căn, qua việc bố thí và đền bù. 

Lời đáp quảng đại và cũng mau mắn của ông Gia-kêu mời gọi chúng ta nhận ra, dù ông là người tội lỗi, ông vẫn là « con cháu Abraham », là hình của Thiên Chúa, là con Thiên Chúa. Căn tính này không bao giờ bị mất đi. Chúa Giê-su đã tin tưởng, khơi dậy và làm sinh hoa trái căn tính hình ảnh Thiên Chúa nơi ông và làm sinh hoa trái, hoa trái cứu độ, nghĩa là sự sống, cho ông.

*  *  *

Lời của Đức Giê-su còn mang lại cho chúng ta một tin vui khác nữa, đó là ơn cứu độ được ban cho cả nhà, nhờ vào hành trình hoán cải của một mình ông Gia-kêu. 

Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này. (c. 9)

Đó là điều vượt quá những gì mà ông đã mong ước. Cùng một lúc và thật là quảng đại, Chúa ban ơn cứu độ cho cả nhà ông Gia-kêu. Đây chính là một tin vui, và tin vui này đặc biệt có ý nghĩa đối với chúng ta và đem lại cho chúng ta niềm hi vọng, nhất là khi chúng ta quan tâm đến những người thân yêu, còn sống cũng như qua đời.

Tuy nhiên, trong lời công bố ơn cứu độ, ban cho nhà ông Gia-kêu, có một từ ngữ phải làm cho chúng ta ngạc nhiên, đó là từ « hôm nay ». Thực vậy, Chúa nói : « Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này ». Như thế, ơn cứu độ mà Đức Giê-su ban cho chúng ta không chỉ là ơn giải thoát khỏi sự chết ở đời sau, nhưng còn là ơn giải thoát khỏi tất cả những gì gây ra bầu khí chết chóc trong gia đình của chúng ta ngay ở đời này và ngay hôm nay. Bởi vì, như mỗi người chúng ta đã nghe nói hay đích thân có kinh nghiệm, những điều thuộc về Sự Dữ, gây ra bầu khí chết chóc ngay trong cuộc này, đó là vô ơn, ích kỉ, áp đặt, ghen tương, nghi ngờ, dò xét, xét đoán, cố chấp, bạo lực, tham lam, chiều theo lòng ham muốn và dục vọng. Nhưng điều này không làm cho chết ngay, nhưng tạo ra bầu khí tang thương không kém. Vì thế, chúng ta cần được Chúa nói biết bao : « Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này » ; và chúng ta được mời gọi lắng nghe, đón nhận và sống, để cho lời này của Đức Giê-su được ứng nghiệm và sinh hoa kết quả. Vậy, chúng ta hãy bắt đầu hành trình hoán cải từ chính bản thân chúng ta, để qua chúng ta Chúa ban ơn cứu độ cho cả nhà chúng ta, cả cộng đoàn chúng ta ngay hôm nay. 

*  *  *

Đức Thánh Cha cầu nguyện trong Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót : « Xin tỏ cho chúng con thấy dung nhan của Chúa,và chúng con sẽ được cứu độ ». Vậy, khi tôi chiêm ngắm dung nhan của Đức Ki-tô, tôi có cảm nhận được ơn cứu độ không ? Cho tâm hồn và đời tôi ? Cho « cả nhà » của tôi ? Tôi có nhận ra và kinh nghiệm rằng chính Chúa đến tìm tôi và cứu tôi không ? Vì tôi cũng là con cháu Abraham trong đức tin, nhưng là  người tội lỗi bị hư mất. Vì Người nói :

Con Người đến để tìm
và cứu những gì đã mất. (c. 10)

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc