CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN-năm A

Bài 1

Gr 20,7-9; Mt 16,21-27
Chủ đề: Theo Chúa phải từ bỏ ý riêng, bước theo đường lối Chúa.

* Gr 20,7: Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã quyến rũ con và con đã để cho Ngài quyến rũ.

* Mt 16,24: Ai muốn đi theo Thầy phải từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo.

          “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình…” (Mt 16,24). Lời Chúa của Chúa Nhật XXII A gợi lên một số đòi hỏi của Chúa dành cho những ai muốn bước đi theo Người: đó là phải từ bỏ ý riêng của Mình để thực thi ý định, đường lối của Thiên Chúa.

          Trong thực tế, Chúa chọn ai là mời gọi người đó cộng tác với Chúa để hoàn tất dự định cứu độ của Người đối với nhân loại; Mà việc của Chúa thường là đi ngược lại với những khát vọng, hạnh phúc thế trần mà nhân loại tìm kiếm: Họ tìm những hạnh phúc trước mắt, chóng qua, thỏa mãn ngay một số nhu cầu thấp hèn phàm tục; Trái lại Thiên Chúa muốn tặng ban cho con người phúc lộc thần linh, trường sinh đưa con người đến chỗ kết hợp với Thiên Chúa. Vì thế, ai muốn theo Chúa thường phải “bơi ngược dòng”, bị người đương thời chống đối. Khổ đau, ngược đãi, bị loại trừ bởi các thính giả, đối tượng Chúa sai mình tới nói sứ điệp của Chúa là chuyện thường xảy ra; bởi vì người theo Chúa không được phép nói những gì mình ưa thích, hoặc tìm làm vừa lòng các khán thính giả của mình, mà chỉ được nói những gì Chúa truyền phải nói mà thôi.

          Chính vì thế mà những ai muốn theo Chúa phải ý thức, phải chấp nhận từ bỏ ý riêng, dự tính, đường lối của mình, để thực thi những gì Chúa muốn theo đúng đường lối mà chính Chúa đã mặc khải.

          Bài đọc một là tâm sự của Giêrêmia tỏ bày cùng Chúa những ấm ức mà ông phải gánh chịu khi vâng lệnh Chúa nói cho dân những điều mà họ không thích nghe; khốn thay đó lại là điều mà Chúa muốn ông nói ra cho họ.

          Bài đọc một mở đầu bằng một lời như là Giêrêmia hờn dỗi, kêu trách Chúa: Ông nói Chúa đã dụ dỗ, quyến rũ ông và ông không sao cưỡng lại được; Ông biết dân không thích nghe lời ông nói, nhưng Chúa buộc ông phải loan báo sứ điệp của Người cho dân.

          Cụ thể là dân đang an cư trong đất nước, Giêrusalem được Chúa bảo vệ khỏi sự xâm lăng của vua Assyri; Sennakérib vào năm 701; Rồi năm 621, vua Giôsias lại tìm được sách luật và cải cách tôn giáo khá thành công. Vậy mà Giêrêmia lại cứ hét vào tai dân: “Bạo tàn”, thành đó sẽ bị “tàn phá”. Sứ điệp báo họa ấy làm sao lọt được vào tai của đám dân đang tự ru ngủ mình trong những an bình giả tạo. Vì thế, Giêrêmia bị dân mình cười chê, nhạo báng, sỉ nhục, chế giễu suốt ngày đến độ có lúc ông phải thốt lên “Tôi sẽ không nghĩ đến Chúa, cũng chẳng nhân danh Chúa mà nói nữa”.

          Nhưng rốt cuộc, ơn Chúa vẫn mạnh hơn. Lời Chúa như ngọn lửa thiêu đốt tâm can, âm ỉ trong xương cốt khiến ông không thể nào thinh lặng được. Chúa đòi những ai theo Chúa phải can đảm bỏ đi những ước vọng cho dù là chính đáng của mình, kể cả mạng sống, để thực thi đường lối Chúa. Phải chăng vì thế mà “Chúa có ít bạn tâm phúc” (Têrêsa Avila).

          Trong bài đọc Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đòi buộc những ai muốn theo Người phải TỪ BỎ CHÍNH MÌNH và vác thập giá của mình mà theo. Lời mời trên phát xuất từ một bối cảnh trong đó hai sự kiện đối nghịch nhau đã diễn ra: – Phêrô tuyên tín và được Đức Giêsu khen (Tin Mừng XXI A) – Nhưng khi Người mặc khải con đường Thập Giá và Phục Sinh, thì Phêrô đã cản Người, bị Người mắng là “Xatan”. Chính trong bối cảnh đó, Đức Giêsu đòi buộc “ai muốn theo Thầy phải TỪ BỎ CHÍNH MÌNH…”. Đức Giêsu đòi Phêrô phải từ bỏ đi tư tưởng phàm trần của ông để tìm cho ra và đi theo tư tưởng của Chúa. Đòi hỏi đó không chỉ dành riêng cho Phêrô, nhưng được Đức Giêsu mở rộng ra cho mọi người “ai muốn theo Thầy phải TỪ BỎ…”

          Con đường TỪ BỎ MÌNH mà Giêrêmia đã đi báo trước sự từ bỏ tuyệt vời trọn vẹn của Thập Giá Đức Giêsu và được Đức Giêsu mở rộng ra cho tất cả những ai muốn theo Người.

          Vậy Lời Chúa Chúa Nhật XXII A mời môn đệ Chúa luôn cầu nguyện, biện phân để tìm ra và can đảm chọn theo Ý Chúa hơn là tìm thỏa mãn những khát vọng trần tục nơi mình. Để được vậy, phải chỉnh sửa con người mình mỗi ngày, để những gì mình suy tưởng dần dần trở nên phù hợp hơn với tư tưởng đầy yêu thương, cứu độ của Chúa.

Bài 2

“Xatan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người…Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình vác Thập Giá mình mà theo” (Mt 16,23-24).

          Bài đọc Tin Mừng hôm nay là đoạn tiếp nối ngay sau bài đọc Tin Mừng của Chúa Nhật trước. Trong cùng một khung cảnh là cuộc tỏ mình của Đức Giêsu cho đám môn đệ thân tín; Cốt chuyện vẫn xoay quanh hai nhân vật chính là Đức Giêsu và Phêrô. Và điểm trung tâm qui tụ tất cả mọi chi tiết đó là Ý Cha, tư tưởng của Thiên Chúa. Chính mối tương quan của con người đối với Ý Cha được mặc khải qua Đức Giêsu sẽ quyết định số phận mỗi người. Thật vậy hai câu chuyện kế tiếp nhau, xảy ra trong cùng một bối cảnh, chắc cách nhau chỉ một khoảng thời gian ngắn, nhưng đã đưa đến hai kết quả hoàn toàn trái ngược nhau:

  • Trong bài đọc Tin Mừng Chúa Nhật trước, Đức Giêsu đã cố tình tách các môn đệ ra khỏi những tác động của phàm nhân đến từ Do Thái giáo: địa lý, cái nhìn dân tộc chủ nghĩa về Đấng Mêsia, “men” Herode, biệt phái, Xađốc…Để rồi Người tỏ mình cho các môn đệ cách kín đáo qua câu hỏi đầy gợi ý “CON NGƯỜI” là ai? Và kết quả thật đáng mừng. Các môn đệ hoàn toàn rập khuôn, đi vào đường lối của Thiên Chúa. Thật vậy, trước câu đáp của Phêrô (16,16), Đức Giêsu đã hân hoan khen ông nức nở: Anh thật có phúc, vì anh được Cha mặc khải thánh Ý Người và anh đã tuyên tín rập khuôn theo Ý Cha. Và Đức Giêsu đã đổi đời cho Simon, đổi tên ông thành “Phêrô” là “Tảng Đá” trên đó Người xây Giáo Hội Người.

  • Thế nhưng, trong câu chuyện của Tin Mừng hôm nay, mối tương quan giữa Đức Giêsu với Phêrô lại hoàn toàn đảo ngược lại. Đức Giêsu tiếp tục hé mở thêm dự tính cứu độ của Người cho môn đệ: Lộ trình mà Người sẽ đi để biểu lộ căn tính “là Con Người”, “là Mêsia”, “là Con Thiên Chúa” lại là con đường mà ý phàm nhân chẳng hề mong muốn: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ…rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (16,21). Nghe đến “khổ đau”, “bị giết chết”, Phêrô đâm hoảng, ý cuối cùng “ngày thứ ba sẽ sống lại” dường như ông không nghe; Lúc ấy những gì “Cha Thầy Đấng ngự trên trời” mặc khải (16,17) dường như biến mất khỏi ông,nơi ông chỉ còn lại tư tưởng của phàm nhân (16,23); Và một khi chỉ hành động theo ý phàm nhân thì “Tảng đá làm nền để xây Giáo Hội” ngay tức khắc bị biến chất, trở thành “kẻ cản lối Thầy”, và Đức Giêsu đã không ngần ngại nặng lời với Phêrô “Xatan,lui lại đằng sau Thầy”.

Yếu tố nào đã tạo nên tương quan đảo ngược kinh khủng giữa Đức Giêsu và Phêrô như thế? Bài đọc Tin Mừng hôm nay mở đầu như thế này: “TỪ LÚC ẤY”, Đức Giêsu Kitô “BẮT ĐẦU” tỏ cho các môn đệ biết về những khổ đau, sự chết và sự sống lại của Người. Như vậy đây là thời điểm Đức Giêsu khởi sự một chiến lược hoạt động mới. Thật vậy, đọc tổng thể Tin Mừng Matthêu cũng như Nhất Lãm thì biến cố tuyên tín và việc bắt đầu loan báo tỏ tường cho các môn đệ về Thập Giá và Phục Sinh được coi là “bản lề” của Tin Mừng Matthêu. Thật vậy:

          Trước tuyên tín, công việc chính của Đức Giêsu là rao giảng cho đám đông, lôi cuốn dân chúng bằng những bài giảng hay đầy uy quyền (7,28-29), những cuộc tranh luận hấp dẫn, thuyết phục, và nhất là Người làm trong giai đoạn này rất nhiều phép lạ. Hình ảnh một Đấng Mêsia vinh thắng đang dần dần hình thành trong đầu óc đám đông (x.Ga 6,15). Trong giai đoạn này uy quyền Đức Giêsu áp đảo đối thủ từ lời nói đến việc làm; khía cạnh Thập Giá chỉ nhắc qua cách mơ hồ (x.Mt 12,14; 16,4).

          Nhưng sau tuyên tín, khởi sự TỪ LÚC ĐÓ, Đức Giêsu Kitô BẮT ĐẦU nói nhiều về Thập Giá, về một Đấng Mêsia phải chịu nhiều đau khổ theo dung mạo NGƯỜI TÔI TRUNG trong Isaia đệ nhị. Các phép lạ ít hẳn lại: TỪ LÚC ĐÓ cho đến TIỆC LY, Matthêu chỉ còn nhắc tới ba lần phép lạ (17,14-18; 19,2; 20,29-34); Và đối tượng mà Đức Giêsu tiếp xúc cũng thu hẹp lại, hướng nhiều vào Nhóm môn đệ thân tín hơn là vào đám đông.

          Tóm lại, yếu tố chính được mặc khải trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay đã làm thay đổi mối tương quan giữa hai Thầy trò Giêsu_Phêrô là: CÁCH THỨC mà Thiên Chúa đã chọn để Đức Giêsu hoàn tất sứ vụ thiên sai, bày tỏ cách trung thực căn tính thần linh của Người. Nói cho dễ hiểu: Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa hằng sống, là Đấng Mêsia cứu thế đúng như lời Phêrô tuyên xưng. Tuy nhiên phương thức mà Đức Giêsu phải chọn, theo Ý Cha, để hoàn tất công cuộc Cha trao phải là:

  1. Đi lên Giêrusalem.

  2. Chịu nhiều đau khổ.

  3. Rồi bị giết chết.

  4. Vào ngày thứ ba được sống lại. (Mt 16,21b)

Chỉ với cách suy nghĩ của phàm nhân thôi thì Phêrô không chấp nhận được phương thức làm việc như thế. Ông đã cản Đức Giêsu và còn dám gán luôn cho Thiên Chúa cái tư tưởng phàm trần của ông “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (16,22). Câu 16,22 đúng là một lời xuyên tạc trắng trợn đường lối của Thiên Chúa. Đây là cơn cám dỗ mà Rắn đã đánh lừa Eva ở vườn Eđen (x.St 3,4) và Xatan dụ dỗ Đức Giêsu trong hoang địa (x.Mt 4,8). Tất cả chỉ là một MÁNH: xuyên tạc đường lối của Thiên Chúa: xúi con người làm những điều Thiên Chúa không muốn và cản trở con người làm những điều Chúa muốn. Đó là cách thức tinh vi ma quỷ xúi giục con người chống phá chương trình cứu độ của Thiên Chúa. May cho nhân loại là Đức Giêsu trong thân phận của một con người, Người đã trao phó tất cả cuộc đời theo Ý Cha (x.Mt 26,39.53-54; 27,46.50), nên Đức Giêsu đã nhận ngay ra được mưu đồ thâm độc của Quỷ ẩn núp bên trong cái tâm tình “lo lắng cho Thầy” của Phêrô, do đó không ngần ngại mắng Phêrô nặng lời là “Xatan”.

Lương thực của Đức Giêsu là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Người và hoàn tất công trình của Đấng đó (x.Ga 4,34). Còn phần các môn đệ, ai muốn theo Thầy cần nhớ “trò không hơn Thầy, tớ không hơn chủ” (x.Mt 10,24). Do đó lẽ sống của môn đệ là “hãy đến mà xem” (x.Ga 1,39.46), “ở lại với Người” (x.Ga 1,39b; Mc 3,14) rồi “đi theo Người”, được đào tạo, cuối cùng được trao ban Thánh Thần và sai đi thì hành Ý định ngàn đời của Cha (x.Ga 20,21-23). Vì vậy tất cả những gì cho dù là tốt đẹp đến đâu đi nữa, nhưng khởi xuất từ một thời điểm nhất thời trong cuộc sống đều phải nhường bước trước dự định cứu độ vốn đã có từ muôn đời trong Thánh Ý Chúa vì lợi ích cứu độ cho cả nhân loại và từng cá nhân.

  • Dự tính cứu độ từ muôn đời của Thiên Chúa: Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, dự tính cứu độ của Thiên Chúa được tỏ lộ trong Mt 16,21b. Đức Giêsu nói cho môn đệ:

  • Người PHẢI…: “phải” trong tiếng Hi lạp là động từ “dêô” impersonnel ở thì hiện tại: “dei”. Trong các sách Tin Mừng, “dei” thường được dùng để diễn tả Thánh Ý Thiên Chúa. Đối với Đức Giêsu, động từ này xác định những gì Người phải làm trong tương quan với Ý Cha (x.Lc 2,49; 13,33; 19,5; 22,37; Ga 3,14; 9,4…); Động từ này cũng cho thấy Ý Cha thể hiện qua những dấu chỉ đặc thù đã được Cựu Ước loan báo như trường hợp Elia phải đến trước dọn đường cho Đấng Mêsia (x.Mt 17,10; Mc 9,11); “Dei” còn diễn tả ý Cha qua sự ứng nghiệm trọn vẹn lời Kinh Thánh nơi Đức Giêsu (x.Lc 22,37; 24,44…).

Động từ “dei” ở hiện tại và được dùng ở dạng impersonnel, không nói rõ chủ từ; Điều đó diễn tả những gì đi tiếp sau chính là ý định từ muôn đời của Thiên Chúa và luôn là như vậy.

  • “đi lên Giêrusalem…ngày thứ ba sẽ sống lại”: đi tiếp ngay sau ‘dei” là bốn động từ ở 16,21b đều là động từ nguyên mẫu, aorist 2. Nét văn phạm này của các động từ hi lạp hàm ý rằng các việc “đi lên Giêrusalem”, “chịu nhiều đau khổ”, “bị giết chết”, “được sống lại vào ngày thứ ba” không phải là những chuyện đột xuất, bất ngờ xảy tới do các tác nhân phàm trần nhất thời gây ra, mà đó là các biến cố TẤT YẾU (infinitive) được coi như thành sự rồi trong ý Thiên Chúa (thì aorist)

Vậy Mt 16,21b diễn tả “một sự tất yếu bắt nguồn từ chính bản tính Thiên Chúa và qui hướng về việc thực hiện chương trình của Thiên Chúa trong các biến cố cánh chung…Tóm lại khổ nạn (tất cả Mt 16,21b) không phải là một sự kiện “ngoại lệ”, cũng chẳng có gì là một biến cố bất ngờ xảy đến trong sứ mệnh của Đức Giêsu, nhưng là nòng cốt của sứ mệnh Người”. Thêm nữa cách viết của tiếng hi lạp “dei auton, rồi tiếp ngay sau đó là động từ ở inf” còn khẳng định rằng “Đức Giêsu đã ý thức về mọi điều đó…Đức Giêsu đã đi đến cái chết một cách tự nguyện…Người đã nhìn cái chết dưới ánh sáng chương trình của Thiên Chúa như là một việc phục vụ” (Sđd 250 – 251).

  • “được sống lại vào ngày thứ ba”:

Mt 16,21b không dừng ở cái chết, mà ở “sống lại”. Phận người tội lỗi thì phải đi tới cái chết, nhưng điều chung cuộc trong Ý Thiên Chúa là phục sinh. Sự hồi sinh này được Thiên Chúa báo trước qua nhiều dấu chỉ trong Cựu Ước. Thật vậy, trong Kinh Thánh, “Ngày Thứ Ba” là ngày sự sống mới bừng lên sau thời gian ngắn (hai ngày) bị chìm trong u tối, sầu đau:

  • Lịch sử cứu độ khởi sự với Abraham. Và cả cuộc đời theo Chúa của ông chỉ thật sự bừng sáng và tràn đầy ý nghĩa vào thời điểm Thần Sứ cản ông hiến tế Isaac. Đó là giây phút vỡ òa niềm vui, sau hai ngày khổ sầu cùng với con là Isaac đi trên con đường hiến tế. “Ngày thứ ba” là ngày Abraham hồi sinh, ngày ông nhận ra đường lối của Thiên Chúa (x.St 22,4.12.17-18; Dt 11,19). Ông thực sự trở thành nguồn phúc cho mọi dân vào cái “ngày thứ ba” này (x.St 12,2-3; 22,17-18). “Ngày thứ ba” là ngày Thiên Chúa biến lời hứa, mời gọi của Người (x.St 12,2-3) trở nên lời cam kết vĩnh cửu, lời thề nhân danh chính Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời Người đã hứa (x.St 22,17-18).

  • “Ngày thứ ba” còn nhắc lại sấm ngôn Hs 6,2 nói lên lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với dân nếu dám chân tâm hoán cải: Có tội thì phải phạt (x.Hs6,1) nhưng chỉ phạt “hai ngày” thôi; đến “ngày thứ ba” sẽ cho chúng ta chỗi dậy. Vậy “ngày thứ ba” là ngày Chúa hoàn tất công trình tha thứ, chữa lành dân Chúa.

  • “Ngày thứ ba” còn gợi lại một sai lầm chết người của Đavit, khi ông đã ổn định mọi sự, lại muốn tự mình làm chủ vận mạng dân tộc mình, không cần đến Chúa: ông muốn kiểm tra dân số, bất chấp mọi lời can gián (x.2Sm 24,10-35)…Hậu quả là một án phạt “ba ngày ôn dịch”. Trong lúc dịch bệnh hoành hành sắp tiêu diệt Giêrusalem “cho đến lúc đã định” (tức ngày thứ ba: 24,15) thì Chúa ra lệnh ngưng phạt. Nơi dịch họa đạt tới đỉnh cao lại trở thành bàn thờ tế lễ cho Thiên Chúa (24,25). “Ngày thứ ba” đang là chóp đỉnh của tai họa lại trở nên ngày giao hòa: Thiên Chúa thứ tha; con người hối hận lòng thần phục dâng lễ tế kính thờ Thiên Chúa.

  • Nói đến “Ngày thứ ba” không thể quên câu chuyện lạ thường của ngôn sứ Giona: ông trốn tránh lệnh Chúa vì không muốn dân ngoại, vốn là kẻ thù của dân Chúa, được cứu…Nhưng Chúa đã can thiệp mạnh: buộc ông phải đến nơi Chúa muốn, làm điều Chúa dạy. Cách làm của Chúa thật lạ lùng: cá nuốt ông ba ngày. Đến ngày thứ ba nó lại “mửa” ông ra ở nơi ông phải đến (x.Gn 2,11) và thi hành sứ mạng, nhờ đó dân ngoại Ninivê được cứu. Như vậy “Ngày thứ ba” ở đây là khởi điểm Thiên Chúa thứ tha cho dân ngoại, tính phổ quát của ơn cứu độ được công bố.

Đó là dự tính cứu độ phổ quát của Thiên Chúa được hé mở dần trong dòng lịch sử. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ hoàn tất! Và với Thập Giá và Phục Sinh của Đức Giêsu mọi dự tính của Chúa về “Ngày thứ ba” được ứng nghiệm trọn vẹn.

  • Phản ứng của Phêrô và Đức Giêsu khắc phục giải cứu.

Phản ứng của Phêrô không còn chút nào là dấu vết của “mặc khải của Cha” (16,17) mà hoàn toàn là “tư tưởng của loài người” (16,23c). Như đã phân tích ở trên, phản ứng của Phêrô là một biến thái của cơn cám dỗ địa đàng và của cám dỗ sa mạc: cơn cám dỗ đẩy con người đi ra khỏi đường lối của Thiên Chúa.

Đứng trước cơn cám dỗ này, không có vấn đề tranh luận mà phải DỨT KHOÁT, nhanh chóng vạch mặt gian mưu và loại trừ mọi ý tưởng sai trái khỏi tâm ý mình. Đường lối giúp Đức Giêsu thắng trong sa mạc, giờ Người áp dụng cho Phêrô: vạch mặt Xatan và lấy lại thế chủ động làm theo Ý Chúa.

          Nhưng Phêrô không phải cố ý chống phá Chúa: ông vẫn là môn đệ nhưng lạm quyền, lấn sàn: “kéo riêng Đức Giêsu ra” rồi “trách Người”, rồi còn cả gan đem “Ý Cha” ra xuyên tạc. Nên Đức Giêsu không loại trừ mà Người chỉnh sửa bằng cách đưa ông về lại vị trí của người môn đệ “hãy lui đằng sau Thầy”. Môn đệ phải là người theo Thầy và làm công cuộc của Thầy (x.Mt 4,19) chứ không phải là kẻ “cản lối Thầy”. Đức Giêsu đã đưa Phêrô về lại với “mặc khải”, “tư tưởng” của Thiên Chúa.

  • Ai muốn theo Thầy…(16,24): Lời này được ngỏ cho mọi người chứ không phải dành riêng cho môn đệ thân tín. Vậy những đòi hỏi sau đây là nét cơ bản dành cho mọi Kitô hữu.

“Từ bỏ chính mình”, “vác thập giá mình”: đây là điều kiện buộc để có thể theo được Đức Giêsu. Nói cách khác, phải từ bỏ “tư tưởng của loài người” và mang lấy “tư tưởng của Thiên Chúa” làm của mình. Đức Giêsu không bảo vác thập giá, từ bỏ cách chung, nhưng là từ bỏ CHÍNH MÌNH, vác thập giá CỦA MÌNH; Nghĩa là mỗi người phải theo Chúa cách biệt vị, độc đáo của từng người, nơi bản thể mỗi người, với tất cả những gì tạo nên con người mình bất luận tốt xấu. Vấn đề là với một con người cụ thể như thế đó, mỗi người phải để “tư tưởng Thiên Chúa” điều khiển đời mình: tôi sống là Chúa sống trong tôi (x.Gl 2,20).

Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến, chọn lựa không ngừng: chọn theo “tư tưởng của Thiên Chúa” sống theo mặc khải của Đức Giêsu trong Mt 16,21b; hoặc chọn theo “tư tưởng của loài người” sống như Phêrô. Xatan cản đường Chúa. Chỉ nhờ ân huệ Chúa và được Chúa sửa dạy thường xuyên, tín hữu mới đứng vững trong đức tin. Cuộc chiến đấu để thăng hoa làm “TẢNG ĐÁ”, hoặc buông thả để biến chất thành “XATAN” luôn là một thách đố quyết liệt cho Giáo Hội và cho mỗi tín hữu.

frère Pierre Đình Long FSC