CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG

Bài 1

Cv 2, 1-11; Ga 20, 19-23
Chủ đề:  Chúa Thánh Thần được trao ban cho đoàn môn đệ.

* Cv 2,3-4: Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần.

* Ga 20,22: Đức Giêsu thổi hơi vào các môn đệ và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.

Hôm nay, Giáo Hội mừng đại lễ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG. Với lễ này, Mùa Phục Sinh chấm dứt và chúng ta trở về lại với Mùa Thường Niên. Với biến cố Hiện Xuống, mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh được mặc khải trọn vẹn…Chúa Thánh Thần ngự đến, dẫn đưa trần gian vào “thời đại cuối cùng”, thời đại của Hội Thánh (GLHTCG 732).

Đức Giêsu đã về trời. Sứ vụ trần thế hữu hình của Người đã hoàn tất; Trong Người, nhân tính của nhân loại chẳng những đã được hồi phục mà còn được tôn vinh là CHÚA: Kurios (Pl 2,11) đi vào trong vinh quang thần linh của Ba Ngôi.

Còn trong tương quan với đoàn môn đệ còn ở lại trần gian, Đấng Phục Sinh cũng đã trang bị cho họ đầy đủ những yếu tố cần thiết để họ có thể tiếp tục một cách hữu hiệu sứ vụ mà Người đã khởi xướng: giới luật yêu thương, Rửa chân, Bí tích, sự bình an, Dấu chứng Phục Sinh, quyền bính, kể cả thổi hơi trao ban Thánh Thần. Giáo Hội đã thành hình. Tuy nhiên Giáo hội chưa hoạt động được, “cửa nhà đều đóng kín” (Ga 20,19,26), vì chưa được Thánh Thần KHỞI ĐỘNG. Thánh Thần như là linh hồn của Giáo Hội (x.GLHTCG 809), làm Giáo Hội nên sinh động, đầy sức sống để có thể sinh hoa trái phong phú – Việc Thánh Thần được trao ban làm Giáo Hội nên sống động có thể coi đó là một công trình “sáng tạo mới” khởi sự từ Mầu nhiệm Phục Sinh. Thật vậy, cũng như tượng đất Adam chỉ trở nên một sinh vật, một con người khi được Thiên Chúa “THỔI HƠI” vào (St 2,7) thì Giáo Hội, đã được Đức Giêsu thiết lập (Mt 16,18), đã được trang bị đầy đủ mọi phương tiện để hành động (x. Ga 20,19-23) chỉ trở nên sống động khi Thánh Thần CÔNG KHAI tỏ mình, mở đầu cho giai đoạn mới: giai đoạn của Giáo Hội.

Thật vậy, các chi tiết của Lời Chúa trong Chúa Nhật lễ Hiện Xuống cho phép chúng ta dễ dàng nhận ra chiều kích sáng tạo trong Mầu Nhiệm Chúa Thánh Thần được ban tặng cho đoàn môn đệ, để Giáo Hội thực sự, chính thức trở nên một “nhiệm thể” sống nhờ có hồn là Chúa Thánh Thần.

Đoạn trích Tin Mừng thuật lại lần hiện ra đầu tiên của Đấng Phục Sinh cho Nhóm Mười môn đệ (vắng Tôma). Trong Tin Mừng Gioan, biến cố này có thể được coi là thời điểm Đức Giêsu chính thức lập Giáo Hội hữu hình và trang bị một số yếu tố nền tảng giúp Giáo Hội hoạt động hữu hiệu trong tương lai đúng ý Đấng Phục Sinh.

  • Người ban cho các môn đệ ƠN BÌNH AN để tâm hồn, ý chí luôn kiên định, an bình loan báo Tin Mừng không chao đảo, lùi bước trước mọi gian nguy thử thách (c.19).

  • Người cho các ông nhìn thấy các vết đinh để củng cố đức tin các ông và đặt các ông làm chứng nhân cho việc sống lại của Người; Đồng thời sai các ông đi tiếp tục công cuộc mà Chúa Cha đã sai Người (cc.20-21).

  • Người thổi hơi trao ban Thánh Thần (c.22) và quyền bính thần linh: tha thứ và cầm buộc (c.23) để đoàn môn đệ thực sự có thực quyền mang lại ơn cứu độ cho các thế hệ tương lai.

Mọi sự đã được Đấng Phục Sinh chuẩn bị sẵn sàng. Chỉ còn chờ thời điểm Chúa Thánh Thần đến KHỞI ĐỘNG để khai mạc thời Giáo Hội. Điều ấy được bài đọc 1 thuật lại cho chúng ta.

Vào ngày Lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, Thánh Thần được công khai ban tặng cho các môn đệ, biến đổi họ hoàn toàn: từ một nhóm người nhát đảm, bất động, vô hồn, sợ hãi, lẫn trốn đột nhiên bừng lên sức sống, đầy sinh khí, trở nên chứng nhân kiên cường, bất khuất loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Giáo Hội hữu hình được Đức Giêsu triệu tập, đào tạo, thiết lập nay đã có hồn sống là Thánh Thần tác động đã công khai xuất hiện.

Biểu tượng được sử dụng để diễn tả Thánh Thần hiện xuống là:

* GIÓ: gợi lại Thiên Chúa, trong công trình sáng tạo đã “thổi hơi” làm cho tượng đất Adam trở nên người sống (St 2,7); và cũng gợi lại việc Thần Khí hồi sinh đám xương khô trong Ed 37,9.

* LỬA: gợi lại cuộc thần hiện ở Sinai: Xh 19,18, Thiên Chúa hiện xuống kết giao ước, ban Luật cho dân, khai sinh dân Chúa.

Và hoa trái của Thần Khí là sự hiệp nhất: mọi người nghe các tông đồ nói bằng tiếng mẹ đẻ của mình: hậu quả của vụ Tháp Babel đã được khắc phục.

Với hồng ân Thánh Thần, công trình sáng tạo cứu độ của Thiên Chúa hoàn tất: Thiên Chúa đã trao ban tất cả cho con người. Vậy chúng ta hãy đón nhận các hồng ân thần linh đó trong tâm tình thờ lạy, biết ơn để thân phận phải chết của con người trở thành CON THIÊN CHÚA; NHIỆM THỂ CỦA CHÚA KITÔ; ĐỀN THỜ CỦA THÁNH THẦN THIÊN CHÚA. Mầu nhiệm “Nhiệm Thể Chúa Kitô” được khai triển trong bài đọc 2: 1Cr 12,12-13.

Bài 2

Bình an cho anh em (Ga 20,19) … các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa (c.20) … Bình an cho anh em ! Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em (c.21) … Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (c.22). Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha. (c.23).

Hôm nay Giáo Hội mừng đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với hồng ân Thánh Thần, Thiên Chúa đã ban tặng cho nhân loại tất cả những gì mà Thiên Chúa có: CHA – CON – THÁNH THẦN. Từ nay Ba Ngôi đến cư ngụ trọn vẹn trong nhân loại: ở với, ở giữa, ở trong (x.Ga 14,16 -17). Và Phaolô đã diễn tả những hoa trái của cái “” đó bằng những hình ảnh biểu tượng tuyệt vời:

  • Chúng ta được gọi Thiên Chúa Cha là “Ba ơi” = “Abba”; Là Con Thiên Chúa; được đồng thừa kế với Đức Kitô; Tất cả là nhờ Thánh Thần (Rm 8,14-17).

  • Chúng ta là Nhiệm Thể Chúa Kitô (1Cr 12,12-30); Người là Đầu của Nhiệm Thể và là Đầu Hội Thánh (Ep 1,22; Cl 1,18).

  • Thân xác chúng ta là đền thờ của Thánh Thần (1Cr 6,19; 1Cr 3,16-17)

Về mặt phụng vụ, các bài đọc được chọn đọc trong Lễ Hiện Xuống là chung cho cả ba năm ABC. Nội dung chính của việc trao ban Chúa Thánh Thần cho đoàn môn đệ MỌI THỜI  và các hoa trái phong phú, đa dạng nhưng hiệp nhất của hồng ân Thánh Thần. Ba trích đoạn được chọn đọc trong phụng vụ Lời Chúa, cho thấy tiến trình Thánh Thần được thông ban cho Giáo Hội theo thứ tự thời gian; Tất cả là vì lợi ích cho Giáo Hội và nhân loại:

  • Ga 20,19-23: Thánh Thần được Đấng Phục Sinh trao ban cho Nhóm Mười. Điểm nhấn là thiết đặt các chứng nhân và các cơ chế nền để lưu truyền mặc khải cho nhân loại mọi thời.

  • Cv 2,1-11: Thánh Thần tỏ mình, hoạt động công khai qua Nhóm Mười Hai (cơ chế đầy đủ), trở thành tác nhân hiệp nhất Cựu và Tân Ước, rồi mở ra cho toàn thế giới.

  • 1Cr 12,33.12-13: một công trình tuyệt vời của Chúa Thánh Thần là hiệp nhất mọi người nên một nhưng vẫn làm nổi bật lên nét đặc thù, độc đáo của từng cá thể, duy nhất bất khả thay thế, đó là làm tất cả thành NHIỆM THỂ CHÚA KITÔ.

Một chi tiết nữa mà phụng vụ Lời Chúa hôm nay lưu ý chúng ta: đó là việc trao ban Thần Khí không được thực hiện cho từng “cá nhân riêng rẽ”, mà là được ban cho cả cộng đoàn đang họp nhau thờ lạy Thiên Chúa. Bài đọc 1 là cuộc phụng thờ của toàn dân Cựu Ước vào dịp lễ Ngũ Tuần; Tin Mừng là các tông đồ và cộng đoàn tiên khởi họp nhau vào “ngày thứ nhất” trong tuần tức là ngày cử hành lễ bẻ bánh.

Vậy chính trong cộng đoàn phụng vụ, cộng đoàn những con người hiệp nhất cử hành đức tin của mình mà Chúa Thánh Thần đưa Giáo Hội đến chỗ hiệp nhất và truyền giáo, tiếp tục sứ mạng Cha đã trao cho Đức Giêsu.

BÀI ĐỌC I: Cv 2,1-11

Bản văn thuật lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên đoàn môn đệ của Đấng Phục Sinh đang tụ họp tại một nơi chờ đón hồng ân “Chúa Cha đã hứa” như lời Đức Giêsu căn dặn (Cv 1,4-5). Mượn thể văn thần hiện, sách Công vụ mô tả Chúa Thánh Thần như hình lưỡi lửa tản xuống, đậu trên đoàn môn đệ, từng người một; và tùy ơn Chúa ban, họ bắt đầu nói tiếng lạ.

Còn đám đông cộng đoàn do thái giáo “từ các dân thiên hạ trở về” hành hương dịp lễ Ngũ Tuần, mặc dù không được đón nhận trực tiếp hồng ân Thánh Thần, nhưng cũng được hưởng nhờ hoa trái của Thánh Thần: họ được nghe loan báo những kỳ công của Thiên Chúa bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Sự rẽ chia do tội từ vụ Tháp Babel, nay đã được tha thứ, hồi phục bởi Thánh Thần. Thánh Thần là tác nhân hiệp nhất, làm cho công trình cứu độ của Đấng Phục Sinh được sinh hoa kết trái viên mãn.

  1. Biến cố Hiện Xuống (Cv 2,1-3)

  • Thời điểm: vào ngày lễ Ngũ Tuần của Do Thái giáo (c.1a) xem CGKPV “Tân Ước” 1995 trang 502 nốt “h”. Xem thêm “Bài Chủ đề”. Pêntekôstes = “ngày thứ 50”.

  • Nơi chốn: bản văn chỉ nói “mọi người (các môn đệ) đang tề tựu ở một nơi”. Nhưng so với Cv 1,13 và Lc 22,12, có lẽ đây là phòng Tiệc Ly.

  • Các diễn tiến của biến cố:

  • Từ trời phát ra một tiếng động”: cách nói hàm ý đây không phải là một hiện tượng thuộc trần thế, mà có nguồn gốc thần linh: “TỪ TRỜI”. Do đó tự sức mình, con người không thể nắm bắt được bản chất của sự việc, nhưng chỉ cảm nhận được nhờ mở lòng ra trước mặc khải rồi tìm cách thông đạt lại ngang qua các hình ảnh quy ước của thể văn thần hiện.

Hai hình ảnh quen thuộc là LỬA (Xh 19,18) và GIÓ (1V 19,11.12) gợi lại hai cuộc thần hiện ở Sinai: một cho Môsê và một cho Êlia. Đây là hai biểu tượng cho thấy Thiên Chúa đang hiện diện và đang làm chủ mọi tình huống.

  • Như tiếng gió”: bản văn không xác định “là tiếng gió”, chỉ đưa ra một lối nói ẩn dụ “như tiếng gió”. Người ta không nắm bắt được bản chất của tiếng động đó. Chỉ biết nó đến từ trời, một cách đột ngột, lôi cuốn sự chú ý của mọi người đang ở trong căn nhà lẫn đang có mặt tại Giêrusalem (Cv 2,6), và nhanh chóng thống lĩnh không gian tại đó.

Những nét trên tương tự như những đặc tính của “gió” được mô tả trong Gioan 3,8, nói lên sự tự do và huyền nhiệm của hoạt động của Chúa Thánh Thần. Điều đó được tỏ rõ ngay, qua hiệu quả tức thời của biến cố:

Vào lúc đó, Chúa Thánh Thần chỉ mới được ban xuống cho các môn đệ đang ở trong nhà, nhưng “tiếng động” lại tác động trên cả đám đông đang hành hương tại Giêrusalem khiến họ nghe thấy và chú ý (Cv 2,6). Điều đó tạo cho họ cơ hội tiếp cận được với sứ điệp Phục Sinh ngang qua lời rao giảng của những người được tràn đầy Chúa Thánh Thần.

Như vậy, đối với các tông đồ, hồng ân Thánh Thần vừa tác động bên trong biến đổi toàn diện con người các ông, vừa là dấu chỉ bên ngoài lôi cuốn mọi người đến với các ông giúp khơi mào, tạo điều kiện cho các ông thi hành hiệu quả sứ vụ Đấng Phục Sinh đã trao phó.

  • Như lưỡi lửa”: cũng như “gió”, “lửa” ở đây là hình ảnh ẩn dụ. Hình ảnh được Cv 2,3 mô tả rất là cụ thể và ấn tượng: cái tản ra và đậu xuống trên từng môn đồ có hình dạng “cái lưỡi” = glossai, nhưng lại giống như “Lửa” = purôs.

Lưỡi” là công cụ dùng để nói; “lửa” là dấu chỉ sự thánh thiện và vinh quang của Thiên Chúa trong các cuộc hiển linh của Người (Xh 3,2; Is 60,1); là biểu trưng cho sự công chính của Thiên Chúa: phán xét và hủy diệt tội lỗi. Lửa thanh luyện và biến đổi tất cả những gì không phù hợp với sự thánh thiện của Ngài (St 19,24). Đồng thời “lửa” cũng là biểu tượng của tình yêu và lòng nhiệt thành vượt thắng mọi trở ngại (Dc 8,6) … (Từ điển Công Giáo “Lửa”).

Vậy có thể hiểu “lưỡi lửa” là lời nói của các tông đồ sau này như lửa vừa để tẩy sạch tâm trí người nghe khỏi mọi tư tưởng sai lầm, mà nghe lời Thiên Chúa, vừa để hun đúc trong tâm hồn người nghe lòng tin yêu Thiên Chúa. Các tông đồ giảng dạy để khơi dậy đức tin cho người nghe (x. CGKPV “Tân Ước” 1995 trang 502 nốt “k”).

  • Tản ra” = diamêrizômênai ptc. pres. pass

Việc tuôn tràn Thánh Thần trên đoàn môn đệ được sách Công vụ diễn tả bằng hình ảnh “những lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một”. Động từ “tản ra” ở dạng động tính từ, hiện tại, thụ động cho thấy hành động này khởi xuất từ Thiên Chúa, luôn là hiện tại cho mọi thời, nghĩa là cùng một Thánh Thần nhưng được Thiên Chúa, tùy lúc, trao ban cho từng tín hữu, đúng thời đúng chỗ: hiệp nhất trong đa dạng.

  1. Hoa trái của Thánh Thần (Cv 2,4-11)

  • Thánh Thần tác động trên đoàn môn đệ (c.4)

  • Bên trong: “ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần”: trong Cựu Ước, ơn Thần Khí chỉ được ban cho một số người đặc biệt để giúp họ hoàn tất một công cuộc nào đó của Thiên Chúa. Giờ đây với biến cố “hiện xuống”, “ai nấy đều được tràn Thánh Thần”, hàm ý thời Mêsia đến rồi (Ge 3,1-2). Mỗi tín hữu đều tràn ơn Thánh Thần nghĩa là mỗi tín hữu trở thành Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 3,18), nghĩa là trở thành tác nhân hiệp nhất, lôi léo mọi người đến để thờ phượng Chúa. Đền Thờ là nơi quy tụ kẻ tin đến thờ lạy Chúa mà! Hoa trái đầu tiên của Thánh Thần là biến tín hữu nên tác nhân hiệp nhất.

  • Biểu lộ ra bên ngoài: “nói các thứ tiếng” = “êtêrais glossais”.

Các tông đồ nói những thứ tiếng nào ? Bản văn không đề cập tới. Thứ tiếng được bản văn nêu đích danh ở đây là “TIẾNG MẸ ĐẺ”.

Tiếng mẹ đẻ” dịch sát là “tiếng phương ngữ riêng của chúng ta mà trong đó chúng ta được sinh ra” (c.8). Vậy vấn đề ở đây không phải là “ngôn ngữ giao tiếp thường ngày” mà là thứ tiếng tạo nên bản sắc của một dân, một nhóm bộ lạc địa phương. Vậy “nghe bằng tiếng mẹ đẻ” là đón nhận lời Tin Mừng do tông đồ rao giảng bằng chính con người độc đáo của nền văn hóa gốc của mình. Tin Mừng không đến để đáp ứng một nhu cầu đại khái, chung chung mà là đáp ứng một cách thích hợp cho từng cá nhân, từng nền văn hóa độc đáo.

Mỗi người, mỗi dân tộc được sinh ra và lớn lên trong một nền văn hóa, trong một môi trường riêng biệt… Đó là những yếu tố cấu tạo nên nhân cách nền của họ. Tin Mừng đến thánh hóa cái nền đó nhưng Tin Mừng cũng phải được xây trên cái nền đó. Lời Chúa đến với họ như họ là. Chi tiết này báo trước tính phổ quát nhưng duy nhất của đức tin công giáo. Đây là công việc của Thánh Thần, không một lời phàm nhân nào có thể làm mọi người nghe Tin Mừng bằng “tiếng mẹ đẻ” của mình được.

Dấu lạ này cũng gợi lại cho ta việc nhân loại bị chia năm sẻ bảy do vụ Tháp Babel (St 11,1-9); Tự sức con người không xây được sự hợp nhất bền vững, đích thật; Chỉ trong Thánh Thần, con người mới khắc phục được những hậu quả do tội gây ra.

  • Thánh Thần tác động trên nhóm hành hương (cc.5-11)

  • Sự kiện là có những người Do Thái sùng đạo từ các dân thiên hạ trở lại Giêrusalem (c.5) để tôn thờ Thiên Chúa vào các dịp lễ hành hương theo đúng luật Môsê (Xh 34,23; Đnl 16,16). Tuy nhiên trong tương quan với cư dân địa phương, họ bị coi như ngoại kiều vì không có đất đai và vì họ đã được sinh ra và lớn lên trong vùng dân ngoại đến độ họ nhận “tiếng mẹ đẻ của họ” (c.8) là Pacthia, Mêdia…

  • Họ nghe được “tiếng ấy”, tức là tiếng động từ trời. “Tiếng ấy” đã lôi kéo họ – thay vì tụ họp tại Đền Thờ – đến với đoàn môn đệ của Đấng Phục Sinh “Tiếng ấy” là tác nhân quy tụ tạo điều kiện thuận lợi để mọi người nghe được sứ điệp Tin Mừng bằng “tiếng mẹ đẻ của mình”.

  • Nội dung sứ điệp được thông đạt bằng “tiếng mẹ đẻ” là “những kỳ công của Thiên Chúa”, tức là ca ngợi ơn cứu độ được Thiên Chúa hoàn thành trọn hảo trong Thập Giá và Phục Sinh của Đức Giêsu. Thật vậy ơn nói “Các thứ tiếng” (êtêrais glossais) là để “mọi miệng lưỡi” (para glossa) tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là CHÚA làm vinh quang Cha (Pl 2,11).

Vậy ơn hiệp nhất ngôn ngữ Thánh Thần ban tặng là để mọi người nên một lòng một trí mà thờ lạy Chúa, chứ không để họp nhau làm loạn như vụ Tháp Babel.

  • Tóm lại, Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của mối hiệp nhất nhân loại và là bảo chứng cho sự thành công chung cuộc của sứ vụ truyền giáo phổ quát và duy nhất của Hội Thánh. Tuy nhiên Chúa Thánh Thần bộc lộ quyền năng qua trung gian chứng tá của môn đệ Đấng Phục Sinh.

Do đó, các môn đệ cũng là tác nhân hiệp nhất ngang qua việc họ can đảm loan báo, làm chứng Tin Mừng Phục Sinh dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần: bằng “tiếng động đến từ trời”, Chúa Thánh Thần đã thu hút đoàn người về từ muôn nước đến với đoàn môn đệ; Đáp lại, đoàn môn đệ bằng “các thứ tiếng tùy Thánh Thần ban” loan báo kỳ công của Thiên Chúa. Thánh Thần đã hiệp nhất nhân loại để tôn vinh, thờ lạy Chúa.

Vậy với Chúa Thánh Thần, các môn đệ của Đấng Phục Sinh, một khi nỗ lực loan báo kỳ công của Thiên Chúa, chứ không phải là làm cái gì khác, thì họ là tác nhân hiệp nhất toàn thể nhân loại.

  1. Tóm kết

Bài đọc 1 thuật lại việc Chúa Thánh Thần được ban xuống trên đoàn môn đệ.

Bằng những hình ảnh thần hiện mượn từ hai lần Thiên Chúa hiện ra ở Sinai, kèm theo bối cảnh của cuộc Hiện Xuống là lễ Ngũ Tuần Do Thái, bản văn giới thiệu đoàn môn đệ của Đấng Phục Sinh chính là hạt mầm của Israel, với luật mới là chính Chúa Thánh Thần được khắc ghi trong tim của từng môn đệ. Đi xa hơn cương giới của một dân tộc, bản văn còn cho thấy Chúa Thánh Thần đã biến đổi đoàn môn đệ Đấng Phục Sinh thành tác nhân hiệp nhất hồi phục lại nhân loại xưa kia đã bị chia rẽ, phân tán vì tội lỗi trong câu chuyện tháp Babel của Cựu Ước. Giáo Hội là cái mầm cho nhân loại mới. Một nhân loại hiệp nhất cùng nói cùng nghe chung một thứ tiếng. Tiếc thay ngày nay Giáo Hội vẫn còn chia rẽ ! Để hoàn tất được ơn gọi và sứ mạng làm tác nhân hiệp nhất, Giáo Hội chỉ phải chuyên tâm kiên trì làm một việc duy nhất thôi, đó là lo loan báo kỳ công của Thiên Chúa dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Kỳ công đó không gì khác hơn là ơn cứu độ, là Tin Mừng Đấng Phục Sinh đã mang tới và hơn nữa Giáo Hội phải là chứng nhân. Nếu Giáo Hội bận tâm vào một điều gì khác hơn là mối bận tâm trên thì nguy cơ chia rẽ là khó tránh. Phần mình, mỗi Kitô hữu phải là một tác nhân hiệp nhất góp phần loan báo kỳ công của Thiên Chúa cho muôn dân, cụ thể là những người sống quanh ta với biến cố Hiện Xuống, Giáo Hội xuất hiện công khai. Xem thêm sđd 502 g.

TIN MỪNG: Ga 20,19-23

Đây là đoạn văn thuật lại lần hiện ra đầu tiên của Đấng Phục Sinh cho Nhóm Mười môn đệ được Tin Mừng Gioan thuật lại. Trong Tin Mừng Gioan có đến ba lần Đấng Phục Sinh hiện ra cho đoàn môn đệ thân tín. Các lần hiện ra đều nhằm thiết đặt những yếu tố cần thiết nhằm giúp đoàn môn đệ sẵn sàng tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu tại thế sau khi Người không còn hiện diện hữu hình giữa các ông nữa.

Trong lần hiện ra thứ nhất này, Đấng Phục Sinh củng cố đức tin các ông vào biến cố Thập Giá và Phục Sinh; thiết đặt các ông là chứng nhân; sai các ông đi tiếp nối công cuộc mà Chúa Cha đã sai Người; trao ban cho các ông những phương tiện, trang bị cần thiết giúp các ông hoàn thành sứ mạng.

Trong tinh thần phụng vụ lễ Hiện Xuống, việc trao ban Thánh Thần chiếm vị trí trung tâm của phụng vụ lời Chúa và tiếp đó là hoa trái của hồng ân Thánh Thần mang lại.

Những hồng ân mà Đấng Phục Sinh trang bị cho đoàn môn đệ trong lần hiện ra này:

  1. Bình an cho anh em”: hồng ân này được lập lại đến ba lần cho đoàn môn đệ (cc. 19.21.26). Mặc dù các ông đã tin Chúa Phục Sinh (20,8), đã được Đấng Phục Sinh cho thấy tỏ tường (20,20), lại còn được trao ban nhiều ân huệ (20,21-23), nhưng gánh nặng sợ hãi, lo âu của biến cố Thập Giá vẫn còn đè nặng trên các ông. Các ông còn trốn chạy sự thật, nhốt mình trong một không gian an toàn giả tạo của một căn phòng cửa khép kín.

Các ông cần được giải phóng: trước tiên là giải phóng nội tâm. Tâm phải an thì mọi sự mới bắt đầu được: bình an cho anh em. Đấng Phục Sinh bắt các ông phải đối đầu với sự thật: Người cho các ông xem tay và cạnh sườn.

Cần phải có bình an để hiểu và đón nhận mầu nhiệm Vượt Qua (Thập Giá và Phục Sinh) làm của mình. Vì mầu nhiệm đó không phải là chuyện riêng của Đức Giêsu mà còn là của mỗi môn đệ (Mt 16,24…); đồng thời mọi người môn đệ còn phải làm chứng, thuyết phục người khác đi theo con đường đó nữa bất chấp những thiệt thòi xảy đến cho mình (x.Cv 14,22).

Để đạt được như thế phải có “bình an của Thầy”: xem Suy nhiệm Mùa Phục Sinh 6C, Ga 14,23-29, số 3. “Di sản trước khi ra đi” (c.27).

  1. Sai đi: sau khi đã củng cố các môn đệ bằng sự bình an và sự cảm nghiệm đích thân của từng người về mầu nhiệm Phục Sinh, Đấng Phục Sinh đã sai phái CỘNG ĐOÀN đảm nhận sứ mạng của chính Người, sứ mạng mà Người đã lãnh nhận từ nơi Cha: “như Chúa Cha đã sai phái Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Ở đây việc sai đi không được xét tới dưới khía cạnh thực thi sứ mạng, nhưng dưới khía cạnh nguồn gốc của sứ mạng. Chỉ có một chương trình cứu độ (đến từ Cha) và một sứ mạng (của Con). Giờ đây sứ mạng của Con trở thành của Hội Thánh ngang qua lệnh sai đi của Đấng Phục Sinh. Như vậy theo dự tính của Thiên Chúa, chương trình của Cha sẽ được hoàn tất qua sứ mạng của Hội Thánh với sự trợ lực của Chúa Thánh Thần.

  • Như Cha đã sai Thầy: cách nói ám chỉ toàn bộ công trình cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu từ lúc Người (Đức Giêsu) nhập thể làm người nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần (Lc 1,35) và Người đã vâng phục đảm nhận trọn vẹn kiếp làm người tội lỗi cho đến tận cùng chết trên Thập Giá (Pl 2,7b-8), để rồi khi đã hoàn tất sứ mạng, Thiên Chúa đã siêu tôn Người (Pl 2,9-11).

  • Thầy cũng sai anh em: noi gương Đức Giêsu, giờ đây đoàn môn đệ cũng phải nhập thế vào trần gian nhờ Chúa Thánh Thần (Cv 2,1-11) để tiếp tục sứ vụ Đức Giêsu đã nhận nơi Chúa Cha: cứu thế bằng cách công bố Tin Mừng Phục Sinh (Cv 2,14-41). Và con đường môn đệ phải đi cũng là đường Thập Giá, đảm nhận thân phận làm người cho đến cùng. Và nhờ chiêm ngắm Đức Giêsu Phục Sinh, Hội Thánh biết điểm tới của mình cũng là Phục Sinh. Chính trong niềm xác tín vào đường lối, sứ mạng thần linh đã được biểu lộ trọn vẹn trong Đức Giêsu, Hội Thánh can đảm đi đường Thánh Giá trong bình an và vui mừng.

  1. Trao ban Thánh Thần (c.22)

  • Thổi hơi” = emphusao. Để diễn tả việc thông ban Thánh Thần cho đoàn môn đệ, Tin Mừng dùng động từ “Thổi hơi”. Động từ này được sử dụng duy nhất ở đây trong toàn bộ Tân Ước. Còn trong Cựu Ước chỉ gặp trong St 2,7; Kn 15,11 và Ed 37,9; cả ba đoạn đều nói lên việc sáng tạo, tác sinh ra một cái mới.

Vậy hành động “thổi” của Đấng Phục Sinh là hành động thần linh của một cuộc sáng tạo mới. Nhờ sức mạnh của Thánh Thần phát xuất từ Đấng Phục Sinh, một thế giới bắt đầu; Israel mới được khai sinh khởi sự từ sứ mạng của các môn đệ trong trần thế.

  • Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha…” (c.23):

Tha tội” là đặc quyền duy của Thiên Chúa (Mc 2,7; Lc 5,21). Tuy nhiên với biến cố Đức Giêsu Phục Sinh, một con người đã thông hiệp nên một trọn vẹn với Ba Ngôi Thiên Chúa: Giêsu là Thiên Chúa. Với Đấng Phục Sinh, quyền năng của Thiên Chúa đã được thông ban cho một con người. Và rồi con người đó trong tư cách là CHÚA (c.20), là Đấng đang thi hành sứ vụ Cha trao (c.21), đang sử dụng quyền năng thần linh hoàn tất công trình sáng tạo (c.22 “thổi hơi” ban Thánh Thần) – nghĩa là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đang đồng hoạt động trong con người đó – đã thông ban quyền tha thứ, cầm buộc cho Hội Thánh, đoàn môn đệ. Từ nay mọi việc Hội Thánh làm đều làm nhân danh Ba Ngôi: “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”; và lộ trình phải theo để hoàn tất công việc là Thập Giá (Ý nghĩa dấu Thánh Giá: khi làm dấu thì vẽ hình Thánh Giá trên người và đọc nhân danh Ba Ngôi).

Quyền được Chúa Phục Sinh trao không để thống trị mà để phục vụ: theo gương Thầy rửa chân cho nhau; để hiệp nhất để đưa mọi người đi vào hiệp thông với mầu nhiệm Ba Ngôi.

Từ nay mọi việc tín hữu làm đều là làm trong tư cách THỪA TÁC VIÊN của Ba Ngôi: nhân danh Cha – Con – Thánh Thần; và động lực, mục đích, phương tiện là Thập Giá để tôn vinh Thiên Chúa.

Vậy “tha thứ” nghĩa là trong tư cách là “thừa tác viên của Chúa”, Hội Thánh (lẫn mỗi tín hữu) mang lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho những ai nhận ra tội mình và muốn hoán cải.

Còn “cầm buộc” là kiên trì mang lòng thương xót Chúa đến cho những ai còn cứng lòng nhằm mục đích thức tỉnh họ (cầm buộc là giúp họ nhận ra sai lỗi của họ) để rồi tiếng nói cuối cùng vẫn là thứ tha.

Tóm: với việc thông ban Chúa Thánh Thần, thời Hội Thánh tự mình đảm nhận sứ mạng đã bắt đầu. Điều quan trọng là phải đi đúng đường lối Chúa. Thánh Thần sẽ dẫn đưa Hội Thánh.

  1. Tóm kết

Trong tinh thần phụng vụ của lễ Hiện Xuống, việc trao ban Thánh Thần hoặc Thánh Thần hiện xuống chắc chắn là sứ điệp chính của phụng vụ.

Khác với Công vụ, chỉ sau khi Đấng Phục Sinh về trời Chúa Thánh Thần mới ngự xuống trên đoàn môn đệ vào dịp lễ Ngũ Tuần Do Thái; Tin Mừng thứ tư đã đặt biến cố trao ban Thánh Thần ngay vào ngày Phục Sinh. Các môn đệ, như là một cộng đoàn phụng vụ, đã được chính Đấng Phục Sinh đến và ban Thánh Thần vào ngày thứ nhất trong tuần. Chi tiết này vọng lại việc cộng đoàn của Tin Mừng thứ tư thường họp nhau vào ngày thứ nhất trong tuần để cử hành lễ bẻ bánh tưởng nhớ Đấng Phục Sinh vào thời điểm sách Tin Mừng thứ tư được soạn thảo. Vậy đây không phải là tường thuật một sự kiện, nhưng là đọc lại biến cố dưới ánh sáng Phục Sinh và hồng ân Thiên Chúa đã được trao ban. Sứ điệp khá rõ:

Chính trong cộng đoàn phụng vụ mà các môn đệ đã tìm lại được bình an nhờ nhận ra được Đấng Phục Sinh luôn “đến” và “ở giữa họ” một cách đầy quyền năng. Chính trong tư cách là một cộng đoàn Hội Thánh đang cử hành phụng vụ mà đoàn môn đệ được nhận lãnh Thánh Thần, được khai sinh như một tạo vật mới và được sai đi như cộng đoàn truyền giáo, tông đồ. Điều này mãi tiếp tục cho đến tận thế.

Frère Pierre Đình Long