Tổng Giáo phận New York
Văn phòng phụng tự thực hiện
Thánh Thể là một kho tàng vô giá: không chỉ hệ tại việc cử hành nhưng cũng bằng việc cầu nguyện trước Thánh Thể ngoài thánh lễ chúng ta được quyền nối kết với nguồn suối ân sủng này… Thật vui sướng khi ở với Chúa Giê-su, tựa đầu vào ngực Ngài như vị Tông Đồ được Chúa yêu (x. Ga 13, 25) và cảm nhận tình yêu vô biên trong trái tim Ngài.
Thánh Giáo Hoàng J.P II,
(Giáo hội sống nhờ Thánh Thể, 25)
Hướng dẫn việc thờ lạy
Giới thiệu
Những hướng dẫn dưới đây tóm tắt tài liệu của Giáo Hội về việc tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ. Nhằm có ý định giúp hàng giáo sĩ và những người trong Tổng giáo phận New York, những người đã được trao phó nhiệm vụ nuôi dưỡng lòng tôn thờ của giáo dân đối với Thánh Thể, qua việc sùng kính bí tích này trong việc tôn thờ cá nhân và cộng đồng. Những câu hỏi liên quan đến hướng dẫn này, có thể gửi trực tiếp đến Văn phòng Phụng Tự.
Thực hành việc lưu giữ Thánh Thể là một nghi thức cổ xưa, có nguồn gốc từ những thế kỷ đầu trong lịch sử Giáo hội. Trước tiên việc lưu giữ Thánh Thể, là để đem Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân được ghi lại trong cuốn “Lời Biện Giải Đầu Tiên” của Thánh Justin Tử Đạo. (c. 155-157). Trong thế kỷ tiếp theo, Thánh Cyprian thành Carthage đã diễn giải cách thức người ki-tô hữu đem Thánh Thể về nhà để được rước suốt tuần, vì vào thời điểm này trong lịch sử ki-tô giáo, thánh lễ chỉ được cử hành vào các ngày chủ nhật. Trong truyền thống thời kỳ đầu tại Roma, đôi khi Thánh Thể được lưu giữ cùng Máu Thánh trong một Thánh lễ được cử hành ở một địa điểm khác, như để diễn tả tượng trưng sự hiệp thông giữa các giáo xứ và giám mục của họ hoặc giữa các giám mục khác nhau. Vào thời điểm khác, Thánh Thể được lưu giữ cùng với Máu Thánh trong một Thánh lễ tiếp sau đó, để biểu thị sự hiệp nhất của tất cả các cử hành Thánh Thể trong Hy tế của Chúa Kitô trên Thập giá. Vì các mục đích khác nhau này, từ thế kỷ thứ tư, Bí tích Thánh Thể thường xuyên được lưu giữ trong các nhà tạm.
Việc thực hành cầu nguyện chung trước Thánh Thể được gìn giữ khởi đầu vào khoảng thế kỷ 11 và 12, như là hệ quả các tác phẩm của các nhà thần học kinh viện với chủ đề về Sự Hiện Diện đích thực của Chúa Ki-tô trong bí tích Thánh Thể. Trong suốt giai đoàn này, giáo lý về sự biến đổi bản thể, trước tiên được nêu rõ trong số các đề tài về niềm tin. Biến đổi bản thể là thuật ngữ được Giáo Hội sử dụng để diễn tả “cách thức mà Chúa Ki-tô hiện diện trong bí tích Thánh Thể qua sự biến bản thể bánh thành Thân Mình Ngài và biến bản thể rượu thành Máu ngài”. Sự giảng dạy này được Công đồng Laterano thứ IV (1215) định nghĩa chính thức và được Công đồng Trento xác nhận vào năm 1551. Tại thời điểm này, các Giáo phụ ở Trento cũng nhắc lại việc giảng dạy của Công đồng Contantinop (1415) quan tâm đạo lý về sự hiện diện của Thánh Thể, đã diễn tả rằng “Chúa Ki-tô hiện diện toàn thể và toàn vẹn trong mỗi tấm bánh Thánh Thể và cũng hiện diện toàn thể và toàn vẹn trong từng mảnh bánh vụn, như khi bẻ tấm bánh cũng không chia cắt Thân thể Chúa Ki-tô”.
Khi các tín hữu vào cuối thời Trung Cổ suy gẫm về bản chất hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể, các thực hành như chiêm ngắm Bí tích Thánh Thể vào lúc nâng bánh thánh và chén thánh sau khi truyền phép trong Thánh lễ, tôn thờ Thánh Thể được đặt trong Mặt Nhật ngoài thánh lễ, và kiệu rước Thánh Thể… ban đầu phát triển. Vào thời ấy và trong suốt những thế kỷ tiếp theo, những nghi thức này được xem là có tính tôn kính chính thức, nghĩa là Giáo hội nhìn nhận… đây là những nghi thức mở rộng việc cử hành Thánh lễ mang tính phụng vụ.
Gần đây hơn, các Nghị phụ Công đồng Vatican II đã tái khẳng định giáo huấn truyền thống của Giáo hội về sự Hiện diện Thực sự của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Các ngài dạy:
Vào Bữa tiệc ly, trong đêm bị nộp, Đấng Cứu Độ chúng ta thiết lập Hy tế Thánh Thể là chính Mình Máu Ngài. Ngài đã làm điều này để hoàn tất Hy tế trên Thập giá qua nhiều thế kỷ cho đến khi Ngài trở lại, và để trao phó cho Hiền Thê yêu dấu của Ngài là Giáo Hội, tưởng niệm về Cái Chết và Sự Phục Sinh của Ngài: bí tích tình yêu, dấu hiệu hiệp nhất, dây ràng buộc đức ái, bàn tiệc vượt qua mà chính Đức Ki-tô được ăn, tâm trí được tràn đầy ân sủng và lời hứa về vinh quang tương lai được ban cho chúng ta.
Trong Công đồng, Thánh Giáo Hoàng Phaolo VI đã diễn tả niềm hy vọng rằng việc cải cách và khôi phục về thánh lễ do các Giáo phụ Công đồng kêu gọi sẽ “sinh nhiều hoa trái trong việc tôn kính Thánh Thể, và với dấu hiệu cứu độ về lòng đạo đức được nâng cao, để Giáo Hội có thể từng ngày tiến đến thành tựu hợp nhất trọn vẹn”. Tương tự, vào năm 1967, Thánh bộ Phụng Tự nhấn mạnh về tương quan giữa việc thờ lạy Thánh Thể và cử hành thánh lễ, chỉ định rằng “khi người tín hữu tôn thờ Chúa Ki-tô hiện diện trong bí tích, họ sẽ nhớ rằng sự hiện diện này bắt nguồn từ hy tế và được quy hướng về sự Hiệp thông cả phần thiêng liêng lẫn bí tích.” Sự liên kết gần gũi giữa việc tôn sùng Thánh Thể và cử hành thánh lễ được diễn đạt và phát triển trọn vẹn hơn trong Hiệp thông thánh và Thờ lạy Thánh Thể ngoài thánh lễ (1973). Tài liệu này trình bày sự tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ trong các nghi thức phụng vụ chính của Giáo Hội, chú ý rằng Thánh Thể “được lưu giữ sau Thánh lễ để mở rộng ân sủng hy tế” của việc cử hành Thánh lễ. Cuốn sách này tiếp tục hướng dẫn Giáo Hội trong các cử hành tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ.
Mục đích tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ
Các vị Giáo hoàng thời nay thường xuyên khuyến khích việc thực hành tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ. Ví dụ, trong lá thư Thứ năm Tuần Thánh năm 1980, Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II đã viết rằng “Giáo hội và thế giới có nhu cầu lớn mạnh về việc tôn thờ Thánh Thể. Chúa Giê-su chờ đợi chúng ta trong bí tích tình yêu này. Chúng ta hãy quảng đại dành thời gian gặp Ngài trong tôn thờ và chiêm ngưỡng đầy niềm tin. Chúng ta hãy sẵn sàng đền tạ về những lỗi lầm và tội ác kinh khủng của thế gian này. Xin cho việc tôn thờ của chúng ta không bao giờ ngừng”. Trong diễn văn cho giới truyền thông Roma năm 2005, Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI có chú ý tương tự, về giá trị của việc thờ lạy Thánh Thể ngoài thánh lễ “chỉ trong tôn thờ mới có sự tiếp nhận thâm sâu chân thành. Và chính cuộc gặp gỡ cá nhân này với Chúa đã củng cố sứ mệnh xã hội chứa đựng trong Bí tích Thánh Thể, tìm kiếm phá đổ không chỉ những bức tường ngăn cản chúng ta đến với Chúa, nhưng còn đặc biệt cả những bức tường ngăn cách chúng ta với anh chị em”. Gần đây hơn, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô cũng có suy tư như vậy “một người không thể biết Thiên Chúa mà không có thói quen tôn thờ trong thinh lặng”.
Nhưng tuyên ngôn của các vị Giáo Hoàng và sự phát triển lịch sử về việc tôn thờ Thánh Thể chỉ ra rằng có 3 mục đích tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ:
-
“Để hiểu biết sự hiện diện kỳ diệu của Chúa Ki-tô trong bí tích”
-
để dẫn đến sự tham dự đầy đủ việc cử hành thánh lễ, đỉnh cao là rước Mình Thánh Chúa; và
-
để khuyến khích và nuôi dưỡng sự “tôn thờ Chúa Ki-tô trong tinh thần và chân lý.”
Tôn thờ Thánh Thể và việc đặt Mình Thánh
Thờ lạy Thánh Thể ngoài thánh lễ hầu như thường diễn ra khi Mình Thánh được lưu giữ trong nhà tạm. Những lần tôn thờ và cầu nguyện riêng này đem đến cho người tín hữu một cơ hội đặc ân “dễ dàng, sinh hiệu quả và tôn kính liên tục Chúa hiện diện trong bí tích bằng việc tôn thờ cá nhân”
Cùng với việc thờ lạy Thánh Thể trong nhà tạm cách riêng tư, Thánh Thể có thể được trưng bày trong mặt nhật hoặc trong bình thánh cho người tín hữu thờ lạy. Việc trưng bày Thánh Thể là nghi thức phụng vụ cộng đồng được cử hành trong cộng đoàn Giáo Hội. Như vậy, nên có thời biểu đặt Mình Thánh khi một số đông người tín hữu hiện diện cầu nguyện trước Thánh Thể. Không bao giờ đặt Mình Thánh vì mục đích sùng kính cá nhân.
Quy tắc chung về việc đặt Mình Thánh
Giáo hội thiết lập những quy tắc dưới đây về việc đặt Mình Thánh:
-
Quỳ gối một lần trước Thánh Thể được lưu giữ trong nhà tạm hoặc được trưng bày cho cộng đoàn thờ lạy.
-
Khi bí tích Thánh Thể được trưng bày trong mặt nhật, có 4 hoặc 6 cây nến được thắp sáng và sử dụng hương trầm. Khi trưng bày bình thánh đựng Mình Thánh, ít nhất 2 cây nến được thắp sáng và hương trầm có thể được sử dụng.
-
Mỗi năm, các cha xứ nên sắp xếp về việc tôn thờ và trưng bày Thánh Thể cách long trọng. Việc này có thể thực hiện trong bối cảnh “40 giờ” cho Chúa hoặc ngắn thời gian hơn.
-
Hàng năm, các giáo xứ cũng có thể có chương trình trưng bày Mình Thánh thường xuyên hơn; tuy nhiên điều này bị cấm khi đặt Mình Thánh chỉ vì mục đích để ban phép lành.
Thừa tác viên đặt Mình Thánh Chúa
Đức Giám mục, linh mục hoặc thày phó tế là thừa tác viên thông thường để đặt Mình Thánh Chúa. Nhưng thừa tác này sẽ mặc áo alba hoặc áo lễ và đeo dây stola. Phải mặc áo choàng trắng và khăn che vai khi lên tiếp xúc với Mình Thánh Chúa và ban phép lành kết thúc khi Mình Thánh được đặt trong mặt nhật. Trong trường hợp Mình Thánh được đặt trong bình thánh, nên khoác khăn chòang vai. Những thừa tác viên nên ban phép lành cho những người hiện diện khi kết thúc thời gian đặt Mình Thánh Chúa.
Khi thừa tác viên thông thường vắng mặt, người được trao tác vụ giúp lễ, thừa tác viên trao Mình Thánh Chúa ngoại thường hoặc thành viên của cộng đoàn tu sĩ, hoặc hiệp hội giáo dân được dành riêng tôn thờ Thánh Thể và đã được giáo quyền địa phương phê chuẩn, họ có thể mở cửa nhà tạm và nếu thích hợp, đặt bình thánh trên bàn thờ hoặc bánh thánh trong mặt nhật.
Vào lúc kết chầu, các thừa tác viên nên đặt Thánh Thể vào lại nhà tạm mà không chúc lành Thánh Thể. Không có phẩm phục nào dành cho thừa tác viên ngoại thường trao Mình Thánh Chúa hoặc cả những thừa tác viên ngoại thường khi đặt đặt Mình Thánh Chúa.
Những nghi thức và lời cầu nguyện – Những lưu ý chung
Nghi thức đặt và chúc lành Thánh Thể được diễn giải trong cuốn Rước lễ và tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ và Thứ tự về việc đặt Mình Thánh Chúa cách trọng thể của hàng Giám mục Hoa Kỳ. Cả hai nguồn tư liệu này chỉ định rằng, trong thời gian Mình Thánh được đặt ra ngoài, nên có những bài hát, lời cầu nguyện, đọc Lời Chúa để giúp các tín hữu thờ lạy Chúa Ki-tô hiện diện trong Thánh Thể. Cũng nên có giây phút thinh lặng để nuôi dưỡng việc cầu nguyện cá nhân.
Phụng vụ các giờ kinh có thể được cử hành trước Thánh Thể. Khi cử hành kinh phụng vụ trước Thánh Thể được đặt ra ngoài, lời nguyện kết của kinh phụng vụ sẽ bị loại bỏ và được thay thế bằng nghi thức ban phép lành Mình Thánh Chúa.
Bộ phụng Tự và Kỷ luật bí tích đã nói rằng: kinh Mân côi như là “lời cầu nguyện được cảm hứng từ Tin mừng và đặt trung tâm vào màu nhiệm Nhập thể và Cứu độ, ‘nên được xem là lời cầu nguyện mang tính Ki-tô học sâu sắc’ và được coi là một trong những lời cầu nguyện ‘hướng dẫn người tín hữu tôn thờ Đức Ki-tô là Chúa” trong bối cảnh tôn thờ Mình Thánh được trưng bày trên bàn thờ.
Thư ký ban Phụng tự của Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng Đàng Thánh Giá, tuy nhiên, không nên đọc suốt thời gian Thánh Thể được trưng bày, khi việc di chuyển quanh nhà thờ thường đi kèm với việc cầu nguyện lòng sùng kính này không giúp nuôi dưỡng sự tôn thờ Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể được đặt trong mặt nhật.
Nghi thức đặt Mình Thánh và chúc lành Thánh Thể
Nghi thức đặt Mình Thánh và chúc lành Thánh Thể thường diễn ra theo cách sau:
Người giúp lễ dẫn vị cử hành vào cung thánh, cả hai sẽ quỳ gối nếu Thánh Thể được đặt ở nhà tạm trong cung thánh. Khi vị chủ tế lấy Mình Thánh Chúa từ nhà tạm, khoác khăn che vai, người giúp lễ và những ai tham dự quỳ gối. Vị chủ tế đặt Mình Thánh Chúa vào mặt nhật, hoặc Mình Thánh Chúa trong bình thánh (được phủ bằng khăn che bình cibor), trực tiếp lên bàn thờ. Vị chủ tế trở về trước cung thánh, và chuẩn bị hương trầm, với sự trợ giúp của người giúp lễ, khi bài thánh ca O Salutaris Hostia hoặc bài thánh Thể thích hợp được hát lên. Vào câu hai của thánh ca, vị chủ tế xông hương Thánh Thể với ba lần xông hương. Sau ít phút thinh lặng thích hợp, chủ tế và người giúp lễ đứng dậy, quỳ gối trước Thánh Thể và trở về phòng thánh.
Vào lúc ban phép lành, vị chủ tế và giúp lễ trở lại cung thánh, bái quỳ khi bài Tantum Ergo hoặc thánh ca Thánh Thể được cất lên. Suốt thời gian này, hương trầm được chuẩn bị, khi bắt đầu hát thánh ca câu hai, vị chủ tế lại xông hương Thánh Thể 3 lần. Sau khi xông hương, vị chủ tế đọc Kinh Thánh Thể và mọi người đáp lại (ví dụ “Chúa đã ban cho họ bánh bởi trời, Bánh có đủ mùi vị thơm ngon”). Đứng, chủ tế đọc hoặc hát “Chúng ta dâng lời cầu nguyện” và công bố lời cầu “Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Ngài đã ban chính mình …” Rồi chủ tế nhận khăn choàng và tiến gần bàn thờ. Bái gối trước Thánh Thể, chậm rãi và cung kính nâng mặt nhật theo dấu thánh giá trên mọi người trong thinh lặng, lúc này giúp lễ xông hương Thánh Thể theo cách trên. Đặt Mặt nhật trên bàn thờ và trở về trước cung thánh, chủ tế quỳ gối và bắt kinh Ca ngợi Thần linh cho mọi người đọc. Cùng với lời nguyện, chẳng hạn như “Xin trái tim Chúa Giê-su …” có thể đọc lúc này. Chủ tế đứng dậy, bái gối trước Thánh Thể trên bàn thờ rồi đặt Mình Thánh vào nhà tạm, sau đó mọi người hát thánh ca tạ ơn như “Thiên Chúa thánh thiện, chúng con ca ngợi Danh thánh Ngài”.
Đặt Mình Thánh và cử hành thánh lễ
Cấm cử hành thánh lễ khi Mình Thánh Chúa được đặt trên bàn thờ. Tuy nhiên, khi Mình Thánh Chúa được đặt trên bàn thờ để tôn kính công khai sau thánh lễ, nên sử dụng Mình Thánh đã được truyền phép trong thánh lễ đó. Mình Thánh Chúa có thể được trưng bày trong Mặt Nhật hoặc trong bình thánh (cibor) đặt trên bàn thờ, được phủ khăn che bình. Chủ tế nên cầu nguyện bằng lời nguyện sau hiệp lễ vào cuối thánh lễ và xông hương Thánh Thể, bỏ lời chúc lành và phép lành cuối lễ. Sau đó, Thánh Thể được đặt trên bàn thờ và kết thúc bằng lời chúc lành.
Kiệu Thánh Thể
Truyền thống Kiệu Thánh Thể trong đoàn rước, đặc biệt vào lễ Mình Máu Chúa (Corpus Christi) được khuyến khích trong phụng vụ Giáo Hội. Mục đích của cuộc rước Thánh Thể qua các đường phố để làm chứng về niềm tin và biểu lộ lòng sùng kính của người Ki-tô hữu đối với bí tích Thánh Thể. Do đó, các cuộc rước kiệu chỉ diễn ra trong khuôn viên nhà thờ không còn được phép nữa, và rước kiệu Thánh Thể thường đi từ nhà thờ này sang nhà thờ khác. Tuy nhiên, nếu cần, cuộc rước có thể trở về nhà thờ mà cuộc rước đã khởi đầu.
Đó là tùy giáo quyền địa phương quyết định về tính khả thi của các cuộc rước, chuẩn nhận địa điểm và chương trình đảm bảo các hoạt động này được thực hiện trong trang trọng và tôn kính. Đồng thời, cần có sự sắp xếp phù hợp với chính quyền và pháp luật để đảm bảo an toàn cho những người tham gia cuộc rước.
Lý tưởng, thánh lễ sẽ cử hành trước cuộc rước Thánh Thể. Sau rước lễ, mặt nhật được chuẩn bị đặt trên bàn thờ. Lời nguyện sau hiệp lễ được đọc lên, Thánh Thể được xông hương và cuộc rước kiệu bắt đầu. Những bài thánh ca về Thánh Thể dễ hát và hát thuộc lòng sẽ được ca đoàn khởi xướng trong suốt cuộc rước. Tuy không bắt buộc, theo truyền thống, Thánh Thể dừng lại tại những chặng để công bố Lời Chúa và nhận phép lành Thánh Thể. Phương du hoặc mái che phủ trên Mình Thánh Chúa cũng có thể được sử dụng tùy ý. Cuối cuộc rước, sẽ ban phép lành Thánh Thể tại nhà thờ mà cuộc rước kết thúc và Thánh Thể được lưu giữ tại đó.
Sách Nghi Lễ Giám Mục đưa ra thứ tự rước kiệu Thánh Thể như sau:
-
Người mang thánh giá cùng với những người cầm nến.
-
Giáo sĩ mặc áo choàng hoặc lễ phục khi cử hành Thánh lễ.
-
Phó tế Thánh lễ
-
Người cầm bình hương đang cháy
-
Linh mục mang Mình Thánh Chúa [đi dưới phương du nếu có] và những người cầm đuốc đi cùng
-
Các thành viên khác trong cộng đoàn [có thể mang nến đang cháy]
-
Những người cầm biểu ngữ phù hợp
-
Nhạc cụ
































