PHỤC SINH

Bài 1

Cv 10, 34a.37-43  ;   Ga 20, 1-9
Chủ đề: NỀN TẢNG CỦA ĐỨC TIN ĐỨC GIÊSU SỐNG LẠI : LỜI CHÚA.

  • Cv 10, 40a.43a: Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô trỗi dậy … Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người.

  • Ga 20,9: Ông đã thấy và ông đã tin. Thật vậy … theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Phục Sinh. Toàn thể Giáo Hội vui mừng long trọng công bố rằng Đức Giêsu bị đóng đinh, được an táng đã ba ngày, nay đã sống lại, Người ĐANG SỐNG HẰNG SỐNG, Người đã vô hiệu hóa quyền lực của Tử Thần và hơn nữa Người đã đi vào cảnh vực thần linh, được tôn vinh là CHÚA, là THẨM PHÁN TỐI CAO xét xử kẻ sống và kẻ chết.

Như vậy từ nay trong nhân loại của chúng ta đã có được một người chiến thắng Tử Thần, mở tung được cửa Âm Ty, được đi vào vinh quang thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Niềm tin đó của chúng ta dựa trên một biến cố xảy ra vào thập niên 30-40 đầu công nguyên được các tông đồ của Đấng Phục Sinh là các chứng nhân đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng, lưu truyền cho hậu thế Tin Mừng Phục Sinh.

“Trường sinh bất tử” luôn là một khát vọng nóng bỏng và mang tính thời sự của kiếp người. Tuy nhiên với sức tạo vật, không thứ gì vượt khỏi tay Thần Chết. Bao vua chúa quan quyền muốn kháng cự lại số phận, cố tìm thuốc trường sinh, cuối cùng cũng chỉ gặp được nấm mồ và gởi nắm xương tàn của mình trong đó.

Trước thực tại ấy, biến cố Phục Sinh quả là một điều vượt quá sức tưởng nghĩ của con người. Do đó khi có sự kiện “NGÔI MỘ TRỐNG” được bà Maria Macđala khám phá và công bố thì con người, kể cả các tông đồ lẫn bà Maria, không thể tin được rằng Đức Giêsu đã Phục Sinh. Lời giải thích xác Đức Giêsu bị trộm mất có vẻ là hợp lý và được lưu truyền rộng rãi vào thời các tông đồ (x. Ga 20, 1-2; Mt 28,11-15). Vậy yếu tố nào đã làm thay đổi tầm nhìn của các tông đồ, của các kẻ tin mọi thời để họ nhận ra rằng thực sự Đức Giêsu đã Phục Sinh và còn hơn nữa đã dám đem cả mạng sống của mình ra để rao giảng và làm chứng ?

Lời Chúa hôm nay cho ta một câu đáp: yếu tố chính là LỜI MẶC KHẢI TRONG KINH THÁNH (Ga 20,9). Đứng trước NGÔI MỘ TRỐNG , khăn liệm thì được xếp ngay ngắn để đúng vị trí (20, 6-7), lúc đó, nhờ ơn Chúa, người môn đệ Chúa yêu đã NHỚ LẠI và nhất là HIỂU LỜI KINH THÁNH rằng ĐỨC GIÊSU PHẢI TRỖI DẬY TỪ CÕI CHẾT (20,9) và ông (có lẽ là cả Phêrô nữa) đã tin Đức Giêsu Phục Sinh cho dù tới lúc đó Người chưa hề hiện ra cho bất kì ai. Hôm nay chỉ tìm hiểu sâu hơn về yếu tố này:

Thật ra Phục Sinh không phải là một biến cố nhất thời, chóng qua, nhưng trong Ý Chúa nó bao trùm toàn thể dòng lịch sử cứu độ. Thật vậy, từ thời Sáng Thế, người ta đã không nói đến cái chết của Kharốc mà chỉ nói “Thiên Chúa đã đem ông đi” (St 5,24); Vào thời quân chủ, có ngôn sứ Elia cũng được Chúa “đưa lên trời trong cơn gió lốc” (2V 2,11b). Và khi còn sinh thời, Elia cũng đã thắng được quyền lực Tử Thần khi đòi lại được mạng sống cho con bà góa Xarépta (1V 17,17-24); Elisê cũng cho hồi sinh con trai của người đàn bà ở Sunêm (2V 4,32-37); Vào thời ngôn sứ Edêkien, với quyền năng Thần Khí, Chúa đã cho Edêkien thấy cả một cánh đồng xương khô cũng có thể hồi sinh thành một đạo binh đông vô kể (Ed 37), như vậy dân Chúa, nhân loại sẽ được hồi sinh; đồng thời ngôn sứ cũng cho thấy bằng cách nào, con đường nào Chúa dùng để hoàn tất công cuộc hồi sinh của Chúa (Is 52,13-53.12).

Rồi khi đến thời đến buổi, quyền năng thần linh đã được thể hiện trọn vẹn nơi con người Giêsu : dấu chỉ rõ nét nhất lúc Người còn sinh thời là kéo Ladarô ra khỏi Sheol dù ông chết, chôn đã 4 ngày.

Phần các tông đồ, Đức Giêsu đã chuẩn bị cho họ bằng nhiều lần báo cho họ biết con đường Thập Giá và vinh quang Phục Sinh. Như vậy mầu nhiệm Đức Giêsu Phục Sinh đã được chuẩn bị chu đáo và báo trước trong KINH THÁNH. Thế nhưng khi chạm trán Thập Giá kinh hoàng, các tông đồ đã bị sự cố trước mắt khống chế quên bẵng đi lời loan báo PHỤC SINH.

Giờ đây đứng trước Ngôi Mộ Trống, khăn liệm xếp ngay ngắn bác bỏ lập luận xác bị cướp, người môn đệ Chúa yêu sực nhớ lại và hiểu lời Kinh Thánh và nhờ ơn Chúa ÔNG ĐÃ TIN ngay cả khi Đấng Phục Sinh còn chưa hiện ra cho ai.

Vậy chúng ta HÃY VỀ LẠI VỚI KINH THÁNH để nhờ đó chúng ta sống vững chắc NIỀM TIN PHỤC SINH đã nhận được.

Bài 2

Bấy giờ, người môn đệ Đức Giêsu thương mến cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, HAI  ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.             (Ga 20,8-9).

Phụng vụ mùa Phục Sinh bắt đầu ! Một bầu khí vui tươi, hớn hở bao trùm khắp nơi. Lời ca tán dương Thiên Chúa Yavê lại được cất cao vang dội trong tâm tình tri ân cảm tạ – HALLELUYA ! có nghĩa là “ca ngợi”, “tán tụng” Yavê, được hợp thành bởi động từ “hallel” = “ca ngợi”, “tán dương” và “YA” = viết tắt của Yavê. Đó là lời tung hô vui mừng xác tín của tuyển dân rằng: Yavê  là Thiên Chúa của mình với tất cả lòng tri ân vì biết bao kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho dân Israel (x. Tv 105,111,146-150).

Trong mùa Phục Sinh, lời tung hô halleluya hướng về con người, sự nghiệp của Đức Giêsu, nhất là biến cố vượt qua của Người. Thật vậy phần lớn các lời ca nhập lễ và ca hiệp lễ của mùa Phục Sinh đều có liên quan ít nhiều đến mầu nhiệm vượt qua và được kết bằng lời tung hô halleluya.

Với niềm xác tín đó, các Ki tô hữu đã mạnh dạn tuyên xưng Đức Giêsu Phục Sinh chính là kurios ( tiếng Hi Lạp, đây là từ dùng để dịch tiếng YHWH của Do Thái). Vậy điều chính yếu của mầu nhiệm Phục Sinh không nằm ở sự kiện xác của Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại; Mà là toàn bộ nhân tính của Người được tôn vinh là kurios ngang hàng với Thiên Chúa Yavê.

Mầu nhiệm Phục Sinh không phải là chuyện riêng của cá nhân Đức Giêsu. Đó là công trình Thiên Chúa thực hiện cho toàn thể nhân loại; Và Thiên Chúa sẽ từng bước một thực hiện cho toàn nhân loại, cho từng người một theo dự tính của Người: “… mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi đến khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất…” (1Cr 15,22b-24a).

Vậy mầu nhiệm Phục Sinh là mừng nhân tính của nhân loại chúng ta được tôn vinh trong Đức Giêsu Phục Sinh. Xác chúng ta trong hiện tại rồi cũng sẽ chết; Tuy nhiên rồi sẽ Phục Sinh để cùng với hồn (vốn là bất tử) kết hợp lại rồi vĩnh viễn được thông phần thiên tính hưởng vinh quang với Đức Giêsu Phục Sinh. Lúc đó ơn gọi làm “là hình ảnh Thiên Chúa” được thể hiện trọn vẹn.

Vậy mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm phục hồi nhân tính. Mặc dù thân xác ta giờ đây vẫn còn bị khuất phục bởi cái chết; Tuy nhiên với quyền năng của một kurios = Chúa, Đức Giêsu Phục Sinh , ngay trong hiện tại đã cho nhân loại, trước tiên là cho những ai tin vào Người, được thông hiệp vào sự sống thần linh của chính Thiên Chúa ngang qua các Bí Tích. Đó là mầm sống Phục Sinh mà Đức Giêsu đã gieo vào trong ta, mỗi người hãy làm cho mầm sống ấy nhân bội lên, để khi đến thời đến buổi, các mầm sống ấy sẽ biến đổi ta nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu.

Trong mùa Phục Sinh các bài đọc 1 không trích từ các sách Cựu Ước, mà từ sách Công Vụ Tông Đồ. Lịch sử dân Cựu Ước giờ đã đi tới mức viên mãn là việc khai sinh dân Tân Ước. Một lần nữa, phụng vụ nhấn mạnh đến tính cộng đoàn của mầu nhiệm Phục Sinh. Đức Giêsu Phục Sinh đưa nhân loại vào giai đoạn mới, giai đoạn chung cuộc của lịch sử cứu độ. Hội Thánh xác nhận mình mới chính là dân đích thực mà Thiên Chúa hứa ban cho các tổ phụ.

Như vậy phép lạ Phục Sinh, không chỉ là chuyện cá nhân: một người chết đã chỗi dậy, mà là MỘT THẾ GIỚI MỚI ĐÃ KHAI SINH. “Ngôi mộ” không còn là ngõ cụt của kiếp phàm nhân mà là “cửa khẩu” đưa nhân loại vào vận hội mới. Có thể nói sẽ không bao giờ có Hội Thánh Kitô nếu không có sự kiện Phục Sinh. Thật vậy với Thập Giá của Đức Giêsu, các tông đồ, môn đệ hầu như hoàn toàn sụp đổ, bỏ cuộc. Chính Đấng Phục Sinh phải tìm đến với họ, tận nơi họ đang lẩn trốn, ẩn mình chờ chết. Người đã vực dậy đức tin của họ, thổi vào họ sinh khí thần linh, linh hoạt họ, và sai họ đi.

Thế nhưng dựa vào đâu mà những con người gần như là tuyệt vọng ấy lại có thể chỗi dậy và tin được rằng Chúa đã Phục Sinh?.

Thông thường, chúng ta dễ bị rơi vào cơn cám dỗ đưa ra 1 câu đáp vội vã, phiến diện: yếu tố nền tảng đó chính là những lần Đấng Phục Sinh hiện ra, gặp gỡ một số người, được Người chọn làm chứng nhân rồi sai phái họ đi công bố điều họ đã được thấy. Nhưng đó chỉ mới là THẤY, là tiếp cận giác quan… còn TIN lại là một vấn đề khác. Đọc kỹ lại các bản văn Tin Mừng nói về Đức Giêsu phục sinh, vấn đề không đơn giản như thế. Việc được tiếp xúc bằng giác quan với xác thân Đấng Phục Sinh không phải là nền tảng để tin Người đã sống lại theo đúng ý nghĩa của mầu nhiệm. Thật vậy:

  • Vì số người được Đấng Phục Sinh hiện ra cho gặp là rất ít; trong khi đó, niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh là chung cho mọi người, mọi nơi, mọi thời.

  • Và các bản văn Tin Mừng đều đồng loạt cho thấy rằng yếu tố tiếp xúc với Đấng Phục Sinh bằng giác quan đã không hề đưa những người gặp Đức Giêsu tới chỗ tin. Họ đã gặp Người nhưng không nhận ra Người (Lc 24, 16; Ga 20, 35; 21, 4)… cách thức mà Đức Giêsu làm cho người ta nhận ra Người thật đầy ý nghĩa:

  • Mắt Maria mở ra khi Người gọi tên bà (Ga 20, 16);

  • 2 môn đệ Emmau: sau khi nghe giải thích Lời Chúa và bẻ bánh (Lc 24, 30-31).

  • Đối với các tông đồ, Người tỏ mình cho họ bằng một lời chúc bình an (Ga 20, 19. 21. 26 so với Lời Chúa hứa trước khi khổ nạn 14, 27; 16, 33).

  • Với Simon Phêrô, Chúa dùng một mẻ cá lạ lùng (Ga 21, 6-7).

  • Với Phaolô là 1 cuộc thần hiện trên đường Đamas, lúc ông ta đang say máu tìm bắt các kẻ tin vào Người “Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ” (Cv9,5). (Suzanne de Diétrich – “ Le dessein de Dieu” p.177)

     Đặc biệt Tin Mừng hôm nay, đoạn văn mở đầu của Tin Mừng 4 nói về Phục Sinh thì “người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến” đã TIN ngay khi chưa được thấy Đức Giêsu hiện ra (Ga 20, 8) và cuối chương này Đức Giêsu công bố trong tư cách là Thiên Chúa (Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con) mà Tôma vừa tuyên xưng: “PHÚC THAY NHỮNG NGƯỜI KHÔNG THẤY MÀ TIN” (Ga 20, 29).

  • Trong Tin Mừng hôm nay, yếu tố chính giúp người môn đệ Chúa yêu tin rằng Người đã Phục Sinh dù chưa gặp Người, đó là ông khi thấy Ngôi Mộ Trống ngăn nắp trật tự, chợt nhớ lại và HIỂU RẰNG: THEO KINH THÁNH, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết (20, 9).

    Còn trong bài đọc 1, gia đình Cornêliô, vốn là dân ngoại, không hề biết gì về Đức Giêsu, về giáo lý của Người… và dĩ nhiên là cũng chẳng hề được Đức Giêsu hiện ra cho thấy, nhưng đã tin vào Đức Giêsu Phục Sinh nhờ lời rao giảng và chứng từ của Phêrô, dựa trên nền tảng là lời các ngôn sứ.

    Vậy Lời Chúa và chứng từ tông truyền là nền tảng vững chắc để muôn thế hệ sau này dựa vào đó mà TIN rằng Đức Giêsu đã Phục Sinh.

BÀI ĐỌC I: Cv 10,37-43

        Cv 10 nói về việc những người dân ngoại đầu tiên Cornêliô, đại đội trưởng Rôma và gia đình – được Phêrô, tông đồ trưởng, đón nhận vào Giáo Hội. Sự can thiệp rõ ràng của TC qua những thị kiến: một cho Phêrô (Cv 10, 9-16) và 1 cho Cornêliô (10, 1-8) và nhất là qua việc thông ban Thánh Thần cách công khai cho tất cả mọi người có mặt tại nhà Cornêliô (cc. 44-45) đã phá tan sự kỳ thị của những người Do Thái đi theo Phêrô lúc ấy (cc. 46-48). Hố ngăn cách giữa người Do Thái và dân ngoại đã được Thánh Thần san lấp, từ nay không còn phụ thuộc nữa vào các tập tục kiêng cữ sạch dơ (12-16), vào phép cắt bì (44-48). Với Đức Giêsu thời đại ơn cứu độ phổ quát đã khởi sự: tất cả mọi người không trừ ai, nếu ăn ở ngay lành và thật lòng kính sợ Chúa (33-38) dều được quyền gia nhập vào cộng đoàn dân Chúa ngang qua việc tin nhận Đức Giêsu và chịu Phép Rửa (x. CGKPV Tân Ước 532 p).

Bài 1 là trọng tâm của chương 10. Đây là bài rao giảng của Phêrô dọn lòng cho cả nhà Cornêliô tin vào Đức Giêsu Phục Sinh và đón nhận phép rửa. Phêrô tóm tắt toàn bộ sứ vụ của Đức Giêsu từ lúc Người bắt đầu sứ vụ công khai cho đến khi sống lại và thiết đặt các chứng nhân cho Người. Phêrô đã đưa lời Ngôn Sứ và chứng từ của chính bản thân để thuyết phục rằng Đức Giêsu thật sự đã Phục Sinh và Người là cội nguồn của niềm tin cứu độ. Cornêliô đã tin và đồng ý gia nhập Kitô giáo. Đây có thể được coi là Kinh Tin Kính của cộng đoàn tín hữu tiên khởi, bao gồm những điều thiết yếu để được lãnh nhận phép rửa gia nhập Giáo Hội. Danh từ chuyên môn gọi là Kerygma = “lời rao giảng tiên khởi” ( xem giải thích ở cuối bài ).

Về cấu trúc, bài giảng này như là một dàn bài tổng quát của một dạng sách Tin Mừng nguyên thủy: các tác giả Nhất Lãm đã dựa theo dàn bài này để khai triển thành sách Tin Mừng của mỗi vị.

  1. Sứ  vụ của Gioan (37b)

  • Dọn đường: Làm phép rửa, rao giảng.

  1. Sứ vụ công khai của ĐGS.

  • Khỏi sự từ Galilê (37a)

  • Được TC xức dầu tấn phong làm Ngôn sứ (38a so Is 61,1 ).

Gợi lại việc Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan. Người được Thiên Chúa tuôn tràn Thánh Thần tấn phong làm Mêssia. Thực ra Người đã tràn đầy Thánh Thần ngay từ lúc tượng thai trong lòng Trinh Mẫu và đã thi ân giáng phúc cho nhân loại rồi: cho thai nhi Gioan và bà Elisabet; Lúc chịu phép rửa là mặc khải công khai cho toàn dân.

  • Thi hành sứ vụ Mêsia – Vua (38b)

  • Thi ân giáng phúc

  • Giải phóng thần dân khỏi ách kiềm chế của ma quỉ.

  • Căn nguyên quyền năng của Người: Thiên Chúa ở cùng

Thi ân giáng phúc”: hình ảnh mượn từ việc vua Rôma khi đi kinh lý: thường ân xá cho các tù nhân, ban tặng tiền của cho người nghèo, ân thưởng cho thần dân có công. Cách nói này ám chỉ Chúa Giêsu chính là Mêsia- Vua (x. Lc 3, 22b) đang ngự thăm thần dân và thi thố quyền năng ban phúc cho dân mình.

  • Các tông đồ là chứng nhân về những sự kiện và ý nghĩa ấy (39)

    Các tông đồ là chứng cho Đức Giêsu không chỉ giới hạn trong sự Phục Sinh, nhưng bao hàm tất cả sứ vụ lịch sử của Người: từ khởi đầu đi loan báo Tin Mừng cho tới khi về trời. Đây là tiêu chuẩn để chọn 1 tông đồ thế chỗ Giuđa: Cv 1,21-22.

  1. Chóp đỉnh của sứ vụ (39b-42)

  • Thập giá: “Họ đã treo Người lên…”. “Họ” tức là người Do Thái (so với 10, 36; xem thêm 2, 23; 3, 13-15; 13, 28).

  • Phục Sinh và hiện ra (40):

  • “ngày thứ ba”: lần duy nhất xuất hiện trong Cv, nhưng gặp nhiều trong Tin Mừng: Mt 16, 21; 17, 23; 20, 19; 27,64; Lc 9, 22; 18,33; 24,7.46. Đây là công thức cổ điển trong lời giảng và đức tin Kitô giáo, và được đưa vào Kinh Tin Kính (x. 1Cr 15, 4)

    Không nên hiểu cách nói này theo nghĩa đen của số học, nhưng theo nghĩa biểu tượng. Thật vậy cách nói này vọng lại nhiều điển tích Cựu Ước:

St 22, 4: ngày Abraham phải hiến tế Isaac, nhưng rốt cuộc Isaac khỏi chết, mở ra một tương lai xán lạn cho Abraham, hình ảnh tiên trưng của Đức Giêsu Phục Sinh.

Hs 6, 2: sau thời gian đánh phạt, cảnh cáo, “ngày thứ ba” là ngày Thiên Chúa tha thứ, hồi phục Israel. Hình ảnh hồi sinh này được Ed 37 và Mt 27, 52-53 lấy lại.

Gn 2, 1: sau 3 ngày trong bụng cá, Giona rao án phạt cho Ninivê, nhưng trong thực tế, lời đó lại là nguyên cớ giúp Ninivê thức tỉnh, sám hối và được thứ tha, được cứu.

Vậy “ngày thứ ba” hàm ý thời điểm cứu độ đã đến rồi, Thiên Chúa hoàn tất mọi điều đã được báo trong Cựu Ước, ân huệ cánh chung đã được thông ban.

  • “Thiên Chúa đã đánh thức Người dậy và cho Người trở nên hữu hình, nhìn thấy được” (dịch sát).

 “Làm trỗi dậy”, “đánh thức dậy” là kiểu nói cổ truyền (x: Đn 12,1-3), diễn tả sự can thiệp quyết liệt chung cuộc của Thiên Chúa giải thoát vĩnh viễn những ai thuộc về Người. Động từ này diễn tả tác động từ tư thế nằm sang đứng hay từ tình trạng ngủ sang thức. Vậy cách trình bày này nhấn mạnh: – với Đức Giêsu, Thiên Chúa đã thực hiện mức cao nhất lần can thiệp chung cuộc – Đức Giêsu đó chính là Đấng mà người đương thời với Người đã gặp, thấy, sờ… được, Người đã chết nhưng nay đang sống với chính cái thân xác mà trước đó mọi người đã biết. Cách nói “Thiên Chúa đánh thức… và cho…” còn nhấn mạnh đến vai trò hoàn toàn chủ động của Thiên Chúa: Cha là cội nguồn tất cả, ngay cả việc Đấng Phục Sinh hiện ra cũng là tác động của Cha. Lối nói này phù hợp với suy nghĩ của người Do Thái: Thiên Chúa Yavê là cội nguồn mọi sự; và cũng cần thiết khi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại: vì họ chưa biết Yavê là ai và niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh không được làm lu mờ vai trò Thiên Chúa Cha)

  • Thiết đặt các chứng nhân (41-42)

  • Đối tượng chính của những lần hiện ra: “chúng tôi” là những chứng nhân được Thiên Chúa tuyển chọn từ trước (nhắc lại vai trò chủ động của Thiên Chúa); đồng thời cũng là người được ĐPS chọn qua việc tỏ mình cho họ thấy: ở đây nhắc lại Lc 24, 36-43.

Cách nói ám chỉ là các tông đồ (x. Cv 1, 21-22; Ga 15, 27). Chi tiết “ăn uống” càng nhấn mạnh rằng thân xác Đức Giêsu cũng chính là Đấng đã bị treo trên thập tự.

  • Mục đích việc thiết đặt: Rao giảng và làm chứng. Nhưng ở đây việc làm chứng lại tập trung vào vai trò “làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết”

Xét xử” là đặc quyền của Thiên Chúa: “đó là mục tiêu chính trong chức vụ thẩm phán tối cao của Người (x. ĐNTHK “Phán xét” C.U I, 1). Như vậy Đức Giêsu trao cho các tông đồ sứ mạng làm chứng rằng người chính là Thiên Chúa nhờ dấu chỉ Người đã phục sinh.

  1. Ý nghĩa biến cố Giêsu trong dòng lịch sử cứu độ (43)

  • ĐGS, nhất là thập giá, phục sinh là điểm đến của mọi lời ngôn sứ (43a)

  • Người là đối tượng của đức tin và cội nguồn ơn tha tội (43b)

Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa hoàn tất mọi lười hứa trong Cựu Ước, do đó từ nay chỉ cần tin vào Đức Giêsu là nhân loại đã có thể hưởng trọn vẹn mọi phúc lành chung cuộc của lịch sử cứu độ ở mức cao nhất. Khía cạnh ngôn sứ được nhấn mạnh ở đây là “ơn tha tội nhờ lòng tin”: Rm 1,17; 9,33; 10,13…

  1. Tóm kết

Để chuẩn bị đón nhận gia đình Cornêliô (đại diện toàn thể dân ngoại) vào Giáo Hội, Phêrô đã công bố những nét thiết yếu của đức tin Kitô giáo. Đó là mầu nhiệm Đức Giêsu mà trọng tâm là thập giá và phục sinh, từ đó nhận ra Người là KURIOS = Chúa”, Thẩm Phán chung cuộc, tối cao. Mầu nhiêm này cũng được tiền định loan báo cho muôn dân nhờ các tông đồ là những chứng nhân đã được Thiên Chúa tuyển chọn từ trước cho họ được đồng hành với Đức Giêsu từ đầu sứ vụ của Người cho đến phục sinh, thăng thiên. Về phía nhân loạn, để hưởng trọn ơn cứu độ, chỉ cần TIN vào Đức Giêsu đúng theo chứng từ tông truyền. toàn thể những điều ấy đã nằm trong dự tính của Thiên Chúa được tỏ lộ qua các ngôn sứ.

TIN MỪNG: Ga 20, 1-9

Sứ vụ công khai cũng như cuộc sống trần thế của Đức Giêsu như khép lại với thập giá và với nấm mồ đóng kín. Mọi sự tưởng chừng là chấm dứt. Nhưng với các môn đệ, vẫn còn một chút gì đó bám víu, dù rất mong manh: lúc sinh thời Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo rằng sau thập giá, ngày thứ ba Người sẽ sống lại.

Đức Giêsu đã Phục Sinh! Mặc dù không ai chứng kiến sự kiện phục sinh, niềm tin vào sự kiện ấy không ngừng gia tăng. Mọi sự bắt đầu với việc các bà ra viếng mộ và khám phá ra ngôi mộ trống vào tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần sau ngày thập giá. Tiếp sau đó là những lần hiện ra của Đức Giêsu cho những ai Người muốn, đặc biệt là các tông đồ để thiết đặt các chứng nhân cho việc Người đã Phục Sinh. Tin Mừng 4 kể lại 4 lần hiện ra của Đức Giêsu sau biến cố khám phá ngôi mộ trống: hiện ra cho Maria Macđala – cho nhóm 11 thiếu Tôma – cho nhóm 11 đặc biệt cho Tôma – và lần hiện ra cuối cùng tại biển hồ Tibêria để trao quyền mục tử cho Phêrô.

Tin Mừng hôm nay là trình thuật về ngôi mộ trống bắt đầu phần nói về Tin Mừng Phục Sinh và những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh.

  1.  sự kiện tiên khởi: tảng đá lấp cửa mộ bị lăn qua một bên (1-2)

  • Thời điểm: ngày thứ nhất trong tuần, sáng sớm lúc trời còn tối

Cả 4 cuốn Tin Mừng đều đồng ý thời điểm khám phá ra ngôi mộ trống là “vào buổi sáng sớm”, tuy nhiên cách diễn tả của mỗi tác giả đều có chút đặc biệt. Tin Mừng 4 lại còn thêm “trời còn tối”. Cái bóng tối còn sót lại ấy trước khi ánh sáng bừng lên, gợi lại St 1,1: Thiên Chúa bắt đầu công trình sáng tạo bằng cách chấm dứt cái “tối tăm trên mặt uông mang” và dựng nên ánh sáng. Tin Mừng 4 sử dụng nhiều chi tiết trong St 1 (x. Ga 1,1 và nốt c; 1,19-2,11 nốt “t” của CGKPV. Tân Ước). Thật vậy chính vào lúc chuyển đổi từ đêm qua ngày này đã xảy ra một cuộc biến đổi ý nghĩa của thực tại “ngôi mộ”: NGÔI MỘ (vốn là biểu tượng của sự chết, đi đôi với bóng đêm còn sót lại) giờ trở thành DẤU CHỈ LOAN BÁO PHỤC SINH (sự sống mới, đi đôi với ngày mới đang tới). Với thập giá và Phục sinh của Đức Giêsu, cái chết không còn là điểm chấm dứt của thân phận loài người nữa mà trở thành ngưỡng cửa bước vào cuộc sống mới. Với ngôn ngữ biểu tượng của Tin Mừng 4, cụm từ “sáng sớm lúc trời còn tối” diễn tả một tạo thành mới đang thành hình, một nhân loại mới sẽ sống đời sống mới nhờ TIN.

Chi tiết “ngày thứ nhất trong tuần” cũng gợi lên bước khởi đầu của công trình sáng tạo mới. Dòng lịch sử cứu dộ lật sang chương mới: dù vẫn còn chút bóng tối (“lúc trời còn tối”) nhung ngày đã lên ngôi, với mầu nhiệm Phục Sinh, ngày đã thắng thế tuyệt đối chờ giây phút Quang Lâm lúc hoàn toàn không còn bóng tối nữa: (x. Kh 21,4; 22,5)

  • Người khám phá sự kiện: Maria Macđala

  • Sự kiện: “thấy tảng đá lăn qua một bên”

  • Phản ứng: “BÀ LIỀN chạy về báo tin…” với nội dung xác Chúa đã bị đánh cắp. Theo bản văn dường như bà không đến nhìn vào mộ lúc này.

Khác với Nhất Lãm: Mc 16,1; Lc 24,1 (ướp xác); Mt 28,1 (viếng mộ); trong Tin Mừng 4, bà ra mộ để than khóc theo tục lệ muốn kéo dài giây phút gần gũi với người thân đã chết (x. Ga 11,32). Việc làm này biểu lộ lòng quý mến sâu xa của bà đối với Đức Giêsu, nhưng còn quá nặng tình cảm nhân loại, nó giam hãm bà trong phạm trù giác quan, sự kiện, suy luận chủ quan ngay cả khi gặp Chúa: x. 20,15, cản trở bà đi tới cái nhìn đức tin để nhận ra ý nghĩa của sự kiện.

  1. khám phá ra Ngôi mộ trống (3-7)

Theo cách trình bày của Tin Mừng 4, Maria không phải là người đầu tiên khám phá ra Ngôi Mộ Trống, bà chỉ thấy “tảng đá lăn qua một bên” và “LIỀN chạy về báo tin” vì suy luận cho là xác Chúa bị đánh cắp. Người đầu tiên thấy (từ bên ngoài vào) NGÔI MỘ TRỐNG TẬN MẮT là người môn đệ Chúa yêu và sau đó ông TIN . Người đầu tiên vào tận mộchứng kiến từng chi tiết quang cảnh bên trong mộ là Phêrô: ông là chứng nhân tỏ tường, chi tiết của sự kiện.

  • Phản ứng trước tin ấy: Phêrô và người môn đệ Chúa yêu cùng CHẠY ra mộ.

Trước biến cố cả ba nhân vật đều CHẠY mặc dù chưa nắm bắt được ý nghĩa của sự việc đó. Điểm chung là sự việc này đã kéo họ ra khỏi nhịp điệu lê lết của nỗi thất vọng ê chề do Thập Giá đang trì kéo họ lại. Họ được vực dậy và được dẫn tới TIN.

  • Diễn tiến:

  • Môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô nên tới mộ trước.

  • ứng xử: không vào mộ, chỉ đứng bên ngoài ngso vào, thấy cảnh chung chung: băng vải còn đó nhưng không còn xác Đức Giêsu.

  • Đến sau nhưng Phêrô vào thẳng trong mộ và thấy mọi chi tiết: băng vải liệm để riêng, khăn che đầu cuộn lại XẾP RIÊNG RA.

Tại sao người môn đệ Chúa yêu không vào mộ ngay ?, có thể có nhiều lối giải thích. Tuy nhiên đó là chuyện phụ. Điều Tin Mừng muốn nói: chính Phêrô là người thứ nhất chứng kiến toàn bộ, chi tiết Ngôi Mộ Trống trong tình trạng nguyên tuyền của nó, hàm ý chứng từ của ông sẽ là nền tảng, là trung thực nhất. Phêrô là người đầu tiên có mặt tại hiện trường. Ông là nhân chứng số một. Với những gì Phêrô chứng kiến: vải liệm và khăn che đầu được để riêng, xếp cận thận, đúng vị trí thì cách giải thích xác chúa bị trộm phải bị loại bỏ. Theo lý tự nhiên, cảnh tượng này thật khó giải thích. Nhưng đối với những ai gắn bó với Đức Giêsu thì đây đúng là một lời nhắc nhở họ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói trước kia và những lời Kinh Thánh. Tất cả trở thành DẤU CHỈ khơi gợi lòng tin.

  1. Dấu chỉ và Lời Chúa căn nguyên của Đức Tin (cc.8-10).

Dấu chỉ: người môn đệ Chúa yêu vào mộ, ông đã thấy và đã tin.

Ngôi Mộ Trống không thể là bằng chứng của sự kiện Đức Giêsu đã Phục Sinh. Đó chỉ là một dấu chỉ. Để nắm được sứ điệp cần hiểu ý nghĩa ẩn phía sau dấu chỉ ấy. Đối với Người môn đệ Chúa yêu, Ngôi Mộ Trống quả là dấu chỉ cần thiết: nó thức tỉnh ông khỏi mây mù Thập Giá, nó nhắc ông nhớ lại và làm ông hiểu lời Kinh Thánh. Từ đó ông mới nghiệm ra rằng quả thật Chúa đã sống lại và ông đã TIN. Tin ngay cả trước khi Đức Giêsu hiện ra cho thấy. Tin Mừng 4 đã khẳng định: việc gặp, thấy Đức Giêsu Phục Sinh bằng xác phàm hoàn toàn không cần thiết để tin. Tác giả đã trải nghiệm một điều mà sau này ông tổng quát hóa cho mọi người “phúc cho ai không thấy mà tin”.

  • Nhớ và hiểu Lời Chúa: điều thiết yếu để tin (c.9).

  • Trong niềm tin, các ông trở về nhà.

Lòng mến thuần túy nhân loại như của Maria chưa thể đưa con người tới đức tin, vì lòng mến đó cũng bị giới hạn bởi thân phận con người. Cần phải nhờ tới ánh sáng của Kinh Thánh chiếu soi hướng dẫn thì lòng mến của con người mới có thể gặp được chân lý, mới nhận ra được ý nghĩa của sự kiện và tin. Giờ đây, nơi người môn đệ Chúa yêu: lòng mến, dấu chỉ Ngôi Mộ Trống và lời khuyên Kinh Thánh quyện lẫn vào nhau đưa ông tới đức tin, giúp ông vượt qua bóng đen của cái chết, nhận ra rằng ĐỨC GIÊSU  ĐÃ PHỤC SINH, bước vào buổi “Tân Niên” của sáng tạo mới dù mắt phàm ông chưa được thấy Người hiện ra.

  1. Tóm kết.

Dù là Chúa Nhật Phục sinh ngay sau đêm canh thức, nhưng ta không hề thấy Đấng Phục Sinh xuất hiện trong Tin Mừng hôm nay; cũng không thấy nói tới trực tiếp việc Đấng Phục Sinh hiện ra cho những người được chọn từ trước. Tin Mừng chỉ thoáng đề cập đến Đấng Phục Sinh ngang qua một lời Kinh Thánh “ Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết”.

Tin Mừng muốn nhấn mạnh đến LÒNG TIN:

  • Tin rằng Đức Giêsu đã thực sự Phục Sinh dù không gặp Người theo thể lý.

  • Và điều kiện cần có để tin.

  • Việc gặp gỡ thể lý, hay được Đấng Phục Sinh hiện ra cho thấy hoàn toàn không cần thiết để tin.

Và yếu tố để tin chính là:

  • Lòng mến của một người môn đệ.

  • Một dấu chỉ: ở đây là Ngôi Mộ trống.

  • Và nhất là phải nhớ lại và hiểu lời Kinh Thánh.

Trình thuật này rõ ràng được soạn thảo cho những người không gặp được trực tiếp Đấng Phục Sinh. Tin Mừng khẳng định rằng tín hữu mọi thời, mọi nơi vẫn có đủ phương tiện cần thiết để nhận ra được Đấng Phục Sinh đang sống và tin vào Người như người môn đệ Chúa yêu: dấu chỉ là chứng từ tông truyền thay cho Ngôi Mộ Trống, còn Lời Chúa thì luôn có đó. Phần còn lại là lòng mến của chúng ta.

  1. Nối kết:

  2. Đức Giêsu chịu đóng đinh Thập Giá nay Phục Sinh.

  • Bài 1: “Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy”.

  • Tin Mừng: Lời Kinh Thánh là : “Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết”.

  1. Vai trò chứng nhân của các tông đồ.

  • Bài 1: “hiện ra cho chúng tôi những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chon từ trước”.(c.41).

  • Các môn đệ là chứng nhân đầu tiên của Ngôi Mộ Trống và các vị đã tin.

  1. Những yếu tố nền tảng cần thiết để tin rằng Đức Giêsu đã phục sinh.

  • Lời Kinh Thánh.

  • Bài 1: Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng…

  • Tin Mừng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải …

  • Dấu chỉ khêu gợi đức tin

  • Bài 1: chứng từ tông truyền.

  • Tin Mừng: Ngôi Mộ Trống.

  • Yếu tố nội tâm

  • Bài 1: lòng khao khát tin của Cornêliô

  • Tin Mừng: lòng gắn bó với Đức Giêsu của ba nhân vật: Maria – Phêrô – môn đệ Chúa yêu.

KERYGMA nghĩa đen là “công bố”, “lời loan báo”. Các Kitô hữu vay mượn từ kerygma này và thêm vào cụm từ “tiên khởi” là để ám chỉ lời rao giảng của các Tông Đồ trong thời kì đầu, để công bố sự kiện trọng đại là Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.

Nội dung của lời rao giảng ấy có thể được tóm tắt như sau:

  1. Đức Giêsu mà người Do Thái đã đóng đinh thì đã được Thiên Chúa cho chỗi dậy từ cõi chết;

  2. Người đã được Thiên Chúa đặt làm Thủ Lĩnh và Cứu Tinh của thế giới;

  3. Những điều đó ứng nghiệm lời Thánh Kinh;

  4. Chúng tôi (các tông đồ) là những chứng nhân tai nghe, mắt thấy, đã được cùng ăn cùng uống với Đức Giêsu sau khi Người đã sống lại;

  5. Mọi người hãy hoán cải, nghĩa là tin và chịu phép rửa để lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần và phúc cứu độ.

“Lời rao giảng tiên khởi” là cốt lõi của đức tin Kitô giáo, sẽ được khai triển trong các sách Tin Mừng về sau.

(Từ điển Công Giáo “lời rao giảng tiên khởi”.)

Frère Pierre Đình Long FSC