Chúa nhật Phục Sinh

NGÔI MỘ TRỐNG
(Ga 20,1-9)

Có người thắc mắc: Chúa Giê su sống lại ngày nào, giờ nào? Có ai thấy? Có ai làm chứng? ( Lại một người theo trường phái Tô ma tông đồ).

     Các tác giả Tin mừng không cho biết người nào hiện diện khi Chúa Giê su sống lại. An táng Chúa Giê su rồi, các Thượng tế và người Do Thái coi như hết chuyện. Các Tông đồ thì tản mát, như gà phải cáo . Mặc dầu đã nhiều lần thầy nhấn mạnh “ngày thứ ba Thầy sống lại”. Các ông chẳng quan tâm, chẳng hiểu và chẳng tin: “Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh  Thánh, Đức Giê su phải chỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20,9). Nên chẳng ai đến mộ Chúa làm gì. Chưa kể lính canh kỹ càng (Mt 27,64).Và như thế, lúc Chúa sống lại chỉ có đám lính bên mồ, nhưng lính canh khiếp sợ, run rẩy và hóa ra như chết. (Mt 28,4). Đám lính canh này, thay vì làm chứng sự việc họ thấy, thì họ lại nói: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm hắn đi.( Mt 28,13). Thì ra, người ta đã biết chạy án, đã biết làm lệch hồ sơ tòa án ngay từ thời Chúa Giê su.

      Nhưng, đúng là đường dối hay cùng. Bổn phận lính canh là canh kỹ càng, vậy mà lại ngủ quên để người ta lấy trộm mà không biết. Ngủ làm sao biết người ta lấy trộm? Mà nếu biết là người ta lấy trôm, sao không bắt giữ? Trách nhiệm người lính ở đâu? Đây chính là bằng chứng gián tiếp cho việc Chúa Giê su sống lại.

      Ngoài ra còn phải kể đến tảng đá đã lăn khỏi mộ (Ga 20,1).

      Sau khi an táng Chúa Giê su, người ta lăn tảng đá to lấp cửa mồ (Mt 27,60). Phi la tô còn chấp thuận cho niêm phong tảng đá (Mt 27,66). Không ai bén mảng đến mộ, chỉ có lính canh kỹ càng. Vậy thì ai đã lăn tảng đá khỏi mộ? Chẳng lẽ người chết lăn được?

      Bên trong mộ thì các băng vải và khăn che đầu được sắp xếp gọn gàng (Ga 20,6-7). Nếu có người lấy trộm xác thì phải mang cả đi. Ai công đâu sắp xếp các khăn liệm gọn gàng. Đây chính là những bằng chứng, dẫu là những bằng chứng gián tiếp.

    Chúa không muốn bày tỏ vinh quang của Ngài cho những kẻ không tin. Ngài chỉ bày tỏ cho những người Ngài tuyển chọn.

    *Người đầu tiên là bà Maria Mác đa la. Bà Maria này là một trong những phụ nữ đi sát với Chúa trên đường khổ nạn của Chúa . Quê của bà ở Mác đa la, một thị trấn gần Biển Hồ Ghê nê xa rét, Trước đó bà đã được trừ khỏi bảy quỉ (Lc 8,2). Bà đã đứng bên Thập giá Chúa (Ga 19,25). Bà đã dự việc an táng Chúa (Mt 27,61) và bà cũng là người đầu tiên đến mộ Chúa (Ga 20,1). Với một người nhiệt tình và yêu mến Chúa như vậy thì Chúa tỏ hiện vinh quang của người là phải rồi. Có người khôi hài nói là Chúa muốn cho chắc ăn, muốn cho tin Ngài phục sinh sớm được phổ biến nên tỏ bày cho các bà trước tiên. Nói như thế, không biết có oan cho các bà khác không, nhưng chắc chắn là oan cho bà Maria Mác đa la.Vì, tại bà yêu thương, bà đi tìm kiếm mà Chúa đáp lời bà. Thử hỏi có môn đệ nào đi đến mộ thầy không?

    *Người thứ hai đươc Chúa tỏ bày vinh quang phục sinh của Ngài là người môn đệ Đức Giê su thương mến (Ga 20,2).Người môn đệ đã nghiêng mình vào ngực Chúa ( Ga 13,25) trong bữa tiệc ly. Khi được Maria Mác đa la báo tin, ông cùng với Phê rô chạy vội ra mộ. Ông trẻ hơn nên chạy nhanh hơn Phê rô, nhưng, kính lão đắc thọ, nên ông không vào mà nhường cho Phê rô vào trước rồi ông mới vào sau. Không biết là thần giao cách cảm hay do tình yêu nồng nàn mà Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).

      *Người thứ ba là Phê rô. Từ khi đi theo Chúa, ông được đổi tên Simon thành Phê rô hay Kê pha, nghĩa là Đá Tảng. “Anh là Phê rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…”(Mt 16,18).Tương truyền là sau khi chối thầy, ông đã khóc lóc ăn năn đến độ hai bên má hẳn sâu như rãnh nước. Không biết khi Maria Mác đa la báo tin, ông có còn khóc không. Có lẽ vì vừa chạy vừa khóc mà ông chạy chậm hơn Gioan. Gioan đã cứu Phê rô một bàn thua trông thấy khi nhường ông vào trong mồ trước. Gioan kính nhường, phần vì tuổi tác, phần vì địa vị Tông đồ trưởng của Phê rô.

    Tảng đá lăn, ngôi mộ trống hay những khăn liệm xếp gọn gàng chỉ là những chứng cứ gián tiếp. Còn những chứng nhân sống, những chứng cứ trực tiếp thì đầy rẫy trong các sách Tin Mừng, sách Tông Đồ Công Vụ và Thư các Tông đồ. Nhiều đến độ nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra (Ga 21,25).

      Có lẽ tốt nhất là mượn lời Chúa nói với Tô ma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29.).

  Lạy Chúa , xin ban Đức tin cho chúng con. Xin nâng đỡ lòng yếu tin của chúng con.

                                                   Nguyễn Đức Lân