CHÚA NHẬT XXIX A THƯỜNG NIÊN

Bài 1

Is 45, 1.4-6; Mt 22,15-21
Chủ đề: Quyền lực thế trần trong công trình cứu độ của­­­­ Thiên Chúa.

* Is 45,1: YAVÊ đã cầm lấy tay phải của vua Kyrô để bắt các dân tộc suy phục ông.
* Mt 22,21: Của César trả về cho César, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa.

        Lời Chúa của Chúa Nhật XXIX A đề cập đến một vấn đề rất thực tế, luôn mang tính thời sự và thiết thân với cuộc sống trần thế của thân phận làm người. Vấn đề đó là mối tương quan giữa quyền lực thế trần và uy quyền thần linh của Thiên Chúa.

        Dưới cái nhìn của Kinh Thánh, tất cả quyền lực trần thế đều là công cụ trong bàn tay của Thiên Chúa: Thiên Chúa sử dụng những quyền lực ấy – cho dù là thuận thảo hay chống đối lại Thiên Chúa – làm phương tiện để thực hiện chương trình cứu độ của Người.

        Đó là dự tính của Thiên Chúa! Còn trong thực tế của thân phận làm người chúng ta, các tín hữu, khi sống giữa thế trần, luôn phải chịu ảnh hưởng, chi phối bởi một thế lực dân sự, thế trần nào đó. Trước các quyền lực ấy, người tin vào Thiên Chúa phải có thái độ đáp trả như thế nào? Nhất là khi những quyền lực ấy đi ngược lại với quyền lợi của cá nhân, của phe nhóm của ta, lắm khi còn đi ngược lại với nhân phẩm con người, đường lối của Thiên Chúa?

        Đó là một vấn đề lớn và phức tạp luôn là mối bận tâm cho con người, cho Hội Thánh. Lời Chúa hôm nay chỉ gợi lên vài định hướng:

        Đối với tín hữu Chúa Kitô, mọi sự đều mang tính giai đoạn, chóng qua và đều là công cụ của Thiên Chúa vào từng giai đoạn lịch sử. Sự thăng trầm của các thế lực trần tục là một sứ điệp Chúa gởi đến cho con cái của Người. Vậy đối với kitô hữu, vấn đề là xin ơn Chúa sáng soi để vượt qua được những được thua trước mắt do các biến cố đưa lại mà NHẬN RA ĐƯỢC SỨ ĐIỆP THẦN LINH, BÀN TAY Thiên Chúa đang dẫn dắt dòng lịch sử; Từ đó có được thái độ đáp trả phù hợp góp phần cùng Chúa từng bước hoàn tất lịch sử cứu độ.

        Cụ thể Lời Chúa hôm nay đưa ra hai dung mạo điển hình của quyền lực trần thế: Vua Kyrô trong bài một và hoàng đế César trong Tin Mừng; đồng thời cũng cho thấy Thiên Chúa sử dụng họ như thế nào.

        Bài đọc một nói về Kyrô, vua Ba Tư, một người dân ngoại. Nhưng YAVÊ đã sử dụng con người, quyền lực của ông làm phương tiện dẹp tan đế quốc Babylon, cứu dân Chúa khỏi cảnh lưu đày, lại còn giúp họ mọi thuận lợi xây lại Đền Thờ và tái thiết Giêrusalem. Công trình ấy tuyệt vời đến độ, Isaia – trong bài đọc một – đã mạnh dạn gán cho vua dân ngoại này tước hiệu MÊSIA “Đấng được Thiên Chúa xức dầu”.

Và bài đọc một liệt kê ra những ưu ái mà Chúa dành cho ông vua dân ngoại này:

  • Chúa ủng hộ, giúp vua thắng các kẻ thù cách dễ dàng (45,1).

  • Chúa chọn đích danh vua để làm người giải cứu dân (45,4).

Chúa làm tất cả các điều ấy là vì lợi ích cứu độ cho dân Chúa (45,5) và cũng vì lợi ích cứu độ cho cả vua Kyrô nữa: qua công trình đó, vua dần nhận ra YAVÊ là Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, ngoài trừ Người, không còn Chúa nào khác (45,6).

        Như vậy , mặc dù không hề ý thức, vua Kyrô đã thực sự là công cụ trong tay Chúa để Chúa thực hiện lời hứa cứu dân Người khỏi ách Babylon và còn đi xa hơn nữa là cho Kyrô nhận ra YAVÊ là Thiên Chúa duy nhất.

        Còn vị vua được đề cập đến trong Tin mừng là César, hoàng đế la mã, đang đô hộ dân Israel. Dấu chỉ của quyền lực đế quốc trên chư hầu là ép dân chư hầu nộp thuế thân cho nhà vua. Liên quan tới vấn đề nộp thuế này, Tin Mừng thuật lại việc hai nhóm Hêrôđê và Biệt Phái vốn là thù địch nhau, giờ lại liên minh để gài bẫy Đức Giêsu qua câu hỏi: “có được phép nộp thuế cho César hay không?” Nếu Đức Giêsu trả lời “có” thì bị nhóm Biệt Phái chụp mũ là “phản quốc”; Còn trả lời “không” thì bị phe Herode gán cho tội xúi dân làm loạn chống nộp thuế. Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu hỏi. Người xin xem một đồng tiền dùng nộp thuế. Hỏi hình in trên đó là của ai; khi biết đó là hình César thì người bảo: “của César trả về César, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Vậy Đức Giêsu phân biệt rõ ràng, con người có hai bổn phận: với trần thế và với Thiên Chúa. Sống giữa trần thế, hưởng dùng các phúc lộc do trần thế mang lại thì phải có bổn phận đối với trần thế, và Đức Giêsu nhấn mạnh: ngoài bổn phận đối với trần thế, con người – kể cả hoàng đế – cũng phải có bổn phận đối với Thiên Chúa. Đức Giêsu không trực tiếp can thiệp vào các lãnh vực trần thế, Người chỉ hướng dẫn con người đường lối về lại với Thiên Chúa Cha như là người con hiếu thảo.

        Vậy hãy chu toàn tốt mọi bổn phận thế trần chính đáng trong tư cách là người con hiếu thảo của Thiên Chúa; đồng thời xác tín rằng Chúa là Đấng làm chủ dòng lịch sử: Tất cả mọi quyền bính trần thế đều nhất thời, phù du, chóng qua và được Chúa sử dụng theo ý Chúa như những công cụ trong một thời điểm lịch sử để phục vụ cho chương trình cứu độ vĩnh cửu của Người.

Bài 2

Is 45, 1. 4-6
Mt 22, 15-21

-Có được phép nộp thuế cho César hay không? (Mt 22,17)
-Đức Giêsu bảo họ: “…của César trả về cho César; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (22, 21).

Lời Chúa hôm nay đề cập đến một chủ đề luôn mang tính thời sự và được mọi người quan tâm: quyền lực. Quyền lực chính là ân huệ Thiên Chúa ban cho con người để điều khiển các thọ tạo khác và để cùng với Chúa hoàn tất công trình sáng tạo của Người. Được Chúa trao ban quyền bá chủ mọi loài (St 1,26-28) lẽ ra con người phải sử dụng uy quyền đó để phụng thờ Thiên Chúa, phục vụ Thiên Chúa như là một cộng tác viên trung tín, như “hình ảnh Thiên Chúa” (c.26) thì con người, bị sa ngã, đã dùng quyền lực ấy cách sai trái đi lệch đường Thiên Chúa. Con người muốn tạo phản, muốn đoạt quyền của Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình; Và cái chết, sự hủy diệt là không thể tránh khỏi. Thiên Chúa yêu thương không muốn con người trầm luân vĩnh viễn: từng bước một, Thiên Chúa kiên trì thức tỉnh, hồi phục con người. Chúa giúp, nhắc nhở con người ý thức lại giới hạn và cùng đích những quyền lợi mà Chúa đã trao cho con người. “Của César hãy trả lại cho César; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở “ được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có tính cách xây dựng. Đừng ai tìm ích lợi riêng cho mình, nhưng hãy tìm ích lợi cho người khác” (1 Cr 10, 23-24).

Tại thế, ai cũng muốn bảo vệ, bành trướng quyền lợi của mình nên con người đối kháng nhau và quyền lực con người đối kháng với quyền lực của Thiên Chúa. Và con người luôn bị ảo tưởng này cám dỗ: đoạt quyền của Thiên Chúa (St 3, 4) và khi có được chút uy quyền trong tay thì lên mặt ngạo mạn cả với Thiên Chúa (x. Is 36, 13-20; 37,10-13). Và lắm lúc những kẻ tin vào Thiên Chúa còn bị các quyền lực trần thế bách hại. Tuy nhiên, đức tin vào Thiên Chúa dạy tín hữu rằng:

Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, là Đấng điều khiển dòng lịch sử dẫn đưa mọi loài đến cùng đích Người muốn. Tất cả mọi thế lực trần thế dù thuận theo hay chống đối, hoặc không hề biết đến Thiên Chúa đều là những công cụ trong bàn tay của Người. Với quyền năng quan phòng của Người, Thiên Chúa sẽ đưa mọi sự tới đích Chúa muốn trong Thập Giá và Phục Sinh của Đức Giêsu (x. 1Cr 15, 20-29). Đó là nhãn giới chung cuộc được nhìn dưới ánh sáng của đức tin.

Còn trong thực tế hiện tại của trần thế giới hạn, nơi mà quyền lực của sự dữ vẫn còn đất để tung hoành, thì những điều tiêu cực, những quyền lực chống đối Thiên Chúa vẫn còn tìm đủ mọi cách để cản phá không cho con người đi theo đường lối của Thiên Chúa. Tuy nhiên, quyền bính của các thế lực ấy chỉ là nhất thời, và công cụ trong bàn tay của Chúa để Người dẫn dắt dòng lịch sử đến cùng đích Người muốn. Thật vậy, Kinh Thánh đã cho ta thấy biết bao đế quốc thay phiên nhau trồi hiện lên rồi suy sụp, chẳng tồn tại được lâu; Trong khi đó, tiểu quốc nhỏ xíu Do Thái sau bao thăng trầm vẫn tồn tại và Đấng Cứu Thế vẫn từ đó sinh ra.

Những thế lực chống đối đó, được Chúa sử dụng là “đòn vọt” để sửa dạy dân Chúa, chỉnh sửa các sai trái dẫn dân về chính đạo. Tuy nhiên, Thiên Chúa hướng dẫn dòng lịch sử không chỉ bằng khai thác những chống đối; Người còn dùng cả những quyền lực thuận thảo thế trần để điều khiển dòng lịch sử đi vào quỹ đạo của Chúa. Đó là trường hợp của Kyrô, vua Ba Tư mà bài đọc 1 hôm nay đề cập tới.

Vậy các quyền lực trần thế, dù thuận hay chống đều là công cụ để Chúa hoàn tất ý định của Người. Trong bài đọc 1, Kyrô là quyền lực thuận với Thiên Chúa. Còn trong bài đọc Tin Mừng, quyền lực chống đối Thiên Chúa đạt tới cực điểm: hai thế lực trần thế vốn là thù nghịch nhau, phe Hêrôđê và phe Biệt Phái; Ấy vậy mà họ đã liên kết bắt tay nhau tạo nên các cạm bẫy nhằm hại Đức Giêsu, và đỉnh đến là Thập Giá. Nhưng trong Tình Yêu quan phòng của Thiên Chúa, Thập Giá lại là phương thế được Thiên Chúa dùng để cứu độ, giao hòa trần gian lại với Thiên Chúa.

Vậy Lời Chúa hôm nay đề cập đến mối tương quan giữa Thiên Chúa và quyền bính thế trần hay là cách thức Thiên Chúa sử dụng những thế lực trần thế để thực hiện dự tính cứu độ của Người. Lời Chúa cho thấy rằng Kyrô hay César đều là công cụ trong bàn tay Thiên Chúa, cho dù bản thân vua chúa thế trần được Chúa sử dụng không hề biết Người, thậm chí còn chống đối Người. Điều ấy hàm ý quyền lực và cách hành động của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực chính trị, xã hội, tôn giáo. Tất cả chỉ để phục vụ ơn cứu độ mà Thiên Chúa muốn đem tới cho nhân loại: “ để từ đông sang tây, tất cả biết Ta là Thiên Chúa”; “..của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”.

Bài đọc 1 cho thấy Chúa đã chọn Kyrô, vua Ba Tư để làm đấng giải cứu Israel ra khỏi Babylon. Chúa đã ủng hộ vua này đến độ Is 45,1, gọi vua này là “kẻ Người đã xức dầu”. Cách làm việc lạ lùng của Chúa là vì lợi ích cho nhà Giacob, và để cho muôn dân biết chỉ có một mình Yavê là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác. Thiên Chúa là cội nguồn mọi quyền lực, chính Người điều khiển dòng lịch sử.

Tin Mừng thuật lại cuộc đối đầu của Đức Giêsu với liên minh biệt phái Hêrôđê về vấn đề nộp thuế cho César. Hai thế lực: một thuộc nhóm chính trị xã hội, cộng tác với kẻ chiếm đóng và một thuộc nhóm tôn giáo quốc gia chủ nghĩa vốn chống đối nhau, nay họp lại làm gọng kềm nhằm triệt hạ Đức Giêsu. Cái bẫy họ đặt ra dựa trên cái nhìn đối kháng loại trừ nhau giữa thế quyền (César) và thần quyền (Thiên Chúa). Câu đáp của Đức Giêsu cho thấy hai quyền bính này không loại trừ nhau: cái gì thuộc phạm vi trần thế hãy tuân phục những định luật trần thế ( “của César hãy trả lại cho César) như Thiên Chúa đã đặt để trong công trình sáng tạo và ban cho con người quyền bá chủ trên những định luật ấy; còn những gì thuộc lãnh vực Thiên Chúa muốn dành riêng cho Người, con người phải tôn trọng, trả lại cho Thiên Chúa. Điều này hàm ý thế quyền cũng nằm trong tay Thiên Chúa và được Thiên Chúa sử dụng để phục vụ chương trình cứu độ của Người.

BÀI ĐỌC I: Is 45, 1. 4-6

Bài đọc 1 trích từ sách Isaia đệ nhị (Is 40-55). Dân Chúa đang trong tình trạng lưu đày tại Babylon. Họ mòn mỏi chờ mong thời điểm Chúa ra tay giải cứu. Nhưng thực tế trước mắt là đế quốc thì hùng mạnh; Còn dân, dân không có một yếu tố thuận lợi nào khả dĩ lật đổ được ách Babylon: vua quan không còn, Đền Thờ bị san bằng không còn nơi dâng lễ vật cho Chúa để nài xin Chúa tha thứ, xót thương.

Chính trong bối cảnh đau đớn ấy, Isaia đệ nhị được Chúa sai đến yên ủi dân, vì thế Is 40-55 được gọi là sách “an ủi Israel”.

Nội dung chính là loan báo cho dân biết rằng Thiên Chúa tha thứ, cứu chuộc, hồi phục Israel.

– Chống lại các ngẫu tượng, quyền lực thế gian ngạo mạn (Is 41, 21-29; 44, 9-20; chương 46 và 47…)

– Chỉ có Ya vê là Thiên Chúa thật đầy quyền năng làm chủ lịch sử và thế giới ( Is 43, 8-13; 44, 6-8; 44, 24-28…)

– Yavê sẽ can thiệp cứu dân (Is 43, 1-7; 44, 1-5…)

Tuy nhiên, Chúa sẽ cứu bằng cách nào vì thực tế không có chút hy vọng nào? Thật bất ngờ việc Chúa làm: phương tiện Chúa dùng để cứu là một ông vua dân ngoại Kyrô không hề biết Yavê Thiên Chúa là ai, thế mà Is 45, 1 gọi ông là Đấng Mêsia của Thiên Chúa.

Bài đọc 1 đề cập đến vị vua này, trình bày ông là công cụ trong tay Thiên Chúa để mưu ích cho nhà Gia-cop, đồng thời cũng để cho muôn dân thiên hạ nhận biết YAVÊ là Thiên Chúa duy nhất.

CẤU TRÚC Is 45,1 . 4 – 6  và SUY NIỆM

  1. Lời sấm của ngôn sứ nói về vua Kyrô (Is 45,1)

* Là người được hiến thánh cho Thiên Chúa: “Kẻ Người đã xức dầu”
* Được Đức Chúa phù trì  dẫn dắt: “Ta đã cầm tay phải của nó”
* Dự tính của Đức Chúa đối với Kyrô: “để bắt các dân suy phục nó”
* Cách thức cụ thể: “tước khí giới các vua”
                                  “mở toang các cổng thành”.

Đây là lời sấm của ngôn sứ nhân danh Yavê nói về Kyrô: vua được đề cập đến ở ngôi 3 số ít: NÓ. Bản văn gọi vua là “kẻ Yavê ĐÃ xức dầu” nghĩa là người được Chúa chọn để thực thi công cuộc của Người: hay hiểu theo nghĩa mạnh hơn thì Kyrô được xem như Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa cho dân. Thực ra đây chỉ là một dung mạo cuộc bộ, bất toàn về Đấng Mêsia được gán cho Kyrô vì vua này đã giải cứu Israel khỏi tay Babylon và cho họ hồi hương tái thiết đền thờ.

           Chiến thắng mà vua Kyrô có được là nhờ Yavê “bắt các dân tộc suy phục nó”. Yavê”Đà cầm lấy tay phải nó” nghĩa là Người đảm nhận việc hướng dẫn, ủng hộ vua: “Người tước khí giới của các vua”: chi tiết ám chỉ cuộc vinh thắng trong an bình của Kyrô

              Về mặt lịch sử, chi tiết trên có thể là một ám chỉ vọng lại việc vua Kyrô đánh thắng và chiếm Babylon một cách an bình, không phải đổ máu.Thật vậy, một bản văn tìm thấy ở Babylon gọi là “ De Kyrus” khắc rằng: “ Maduk đã công bố tên Kyrô, tuyên bố ông là người xét sử thế giới, đã đưa ông tiến vào Babylon không cần phải chiến đấu, tránh được cho thành mọi thiệt hại. Toàn thể cư dân Babylonđều vui mừng tôn vinh Kyrô như một chủ nhân nhờ đó họ được sống.” Rồi Kyrô lên tiếng ở ngôi thứ nhất như sau: “Ta đã vào Babylon như một người bạn … binh đội của ta tiếp cận thành cách an toàn” ( Monique Piettre – “ comprendre la Parole”- Année A1 p. 120 nốt 4)           

Lúc sấm ngôn được công bố thì Babylon vẫn còn, thế nhưng hai động từ “ĐÃ cầm tay”. “ĐÃ xức dầu” lại được dùng ở quá khứ: điều này hàm ý đó là dự tính từ lâu rồi của Thiên Chúa, chừng đến lúc sắp thực hiện thì Người cho công bố và sẽ hoàn tất trong dòng lịch sử. Điều đáng ngạc nhiên là lần này Chúa lại sử dụng một ông vua dân ngoại; ông này lại không biết Người (c.4đ)

Qua sấm ngôn trên, Is đệ nhị cố gắng củng cố lòng tin của đám lưu đày đang thất vọng rằng chỉ có một mình Yavê là Thiên Chúa, là Tạo Hóa và Đấng Quan Phòng: Người không cần giải thích cho ai cách hành động của Người, phương thức Người sử dụng để hoàn tất ý định của Người; tất cả đều là công cụ trong tay Người. Lần này sức mạnh thần linh được biểu lộ rõ nét, kỳ diệu hơn qua chiến thắng nhẹ nhàng, an bình của Kyrô. Quả thật Thiên Chúa đã cầm tay dẫn dắt vua và tước hết mọi khả năng kháng cự của kẻ thù, nhờ đó cuộc giải cứu thật an bình tốt đẹp.

  1. Yavê cho Kyrô biết dự tính của Người (x. Is 45, 4-6)

    * Yavê chọn Kyrô: “gọi người đích danh”, “ban cho người một tước hiệu”.
    * Yavê hoàn toàn chủ động, vượt trên mọi tri thức của Kyrô về Người: “dù ngươi không biết Ta”.
    * Nguyên do động lực Chúa chọn Kyrô:

        – Vì lợi ích của dân Chúa: Giacob mới là tôi tớ đích thực của YAVÊ.
        Israel mới là người được chọn thật của YAVÊ.
        – Vì lợi ích của chư dân: để muôn dân biết YAVÊ là Thiên Chúa, là thần               linh duy nhất.

“Gọi đích danh” (x. 1Sm 3, 10; Gr 1, 11): “ban cho một tước hiệu” (x. Tl 6, 12) hàm ý Thiên Chúa tuyển chọn riêng những người ấy cho một sứ mạng mạng nào đócủa Người. Một khi đã chọn thì Thiên Chúa “ở cùng” người ấy và sử dụng từng người theo cách thức của Người. Người hoàn toàn tự do trong cách chọn lựa, trong sáng kiến cũng như trong hành động: lần này kẻ được chọn lại là một vua dân ngoại, không hề biết Yavê là ai. Trong lúc ông thể hiện uy quyền hóa ra ông đang là một công cụ trong tay Chúa.

Tất cả mọi người được Chúa chọn đều được dùng phục vụ lợi ích cộng đoàn. Ở đây sứ mạng Kyrô là giải phóng Israel khỏi lưu đày. Trong lúc gọi Kyrô là Mêsia thì Yavê không quên xác nhận lại Israel vẫn là “tôi tớ”, là “người được chọn” của Chúa. Và chính lợi ích của Israel mà Chúa đã chọn Kyrô (c.4).

Trong bản văn phụng vụ, cc 5- 6 được đóng khung bằng ý tưởng độc thần: “Ta là Yavê không còn Chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa ngoại trừ ta” (cc 5a.6c). Cái khung độc thần này làm nổi bật lên sứ mạng mà Yavê trao cho Kyrô được kẹp ở giữa. Ngoài sứ mạng giải cứu Israel. Chúa còn trang bị cho ông đầy đủ để qua ông Người làm cho muôn dân biết Người là Thiên Chúa duy nhất. Ý tưởng “dù ngươi không biết Ta” được lập lại cho thấy sự tự do chọn người cộng tác vào công trình của Người: tất cả đều là công cụ trong tay Thiên Chúa và điểm tới là ơn cứu độ cho dân Người và cho cả nhân loại.

Tóm lại dưới cái nhìn Kinh Thánh, Thiên Chúa là chủ lịch sử, Người tự do sử dụng mọi đế quốc để phục vụ công cuộc của Người, ai không làm đúng đường lối Chúa sẽ bị loại bỏ: Assua, x.Is 10, 5-19; Babybon, x.Gr 16, 16-18 và nốt “q”, 25, 9-13 và nốt “s” (CGKPV-các sách ngôn sứ). Vậy giờ đây, Chúa sử dụng Kyrô chẳng những để giải cứu Israel mà còn dùng ông để làm cho muôn dân nhận biết Yavê là Thiên Chúa duy nhất. Không có Chúa phù trợ, mọi vua chúa đều vô dụng. Các thế lực phải ý thức đứng đúng vị trí mình trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

  1. TÓM KẾT

Dân Chúa trong lưu đày đang hoang mang, lo âu phập phồng chờ giải cứu: Càng lâu, niềm tin, hy vọng càng hao mòn. Isaia đệ nhị không ngừng tuyên sấm vực dậy lòng tin của dân và loan báo giải cứu sắp tới. Điều bất ngờ và cũng gây hoang mang cho dân là công cụ Thiên Chúa sử dụng lần này là một vị vua nhân loại không hề biết Chúa. Thế mà ông lại được Chúa gọi là “Đấng xức dầu” của Người, trao cho ông một sứ mạng tương tự như Đấng Mêsia, vừa đối với dân được tuyển, vừa đối với toàn thể chư dân địa cầu. Để giúp ông hoàn thành sứ mạng, Thiên Chúa đã đồng hành dẫn dắt, phù trợ và trang bị cho ông đầy đủ.

Sứ điệp cho dân: hãy tin tưởng Chúa là Thiên Chúa duy nhất. Người là chủ lịch sử, Người điều khiển mọi loài theo Thánh ý Người, tất cả là công cụ của Người vì lợi ích dân Người và vì vinh quang danh Người. Chúa muốn dùng ai tùy ý Người. Tuy nhiên, kẻ được Chúa chọn phải hành động như là “cánh tay nối dài” của Chúa, đừng như Ađam, khi có đủ mọi sự trong tay, lại trở mặt, manh động đòi xưng mình là “Chúa”. Thiên Chúa sẽ có cách ứng xử xứng đáng thích hợp với những kẻ lạm quyền. Thiên Chúa là chủ dòng lịch sử.

TIN MỪNG : Mt 22,15-21

Đức Giêsu đã tiến vào Giêrusalem! Cuộc sống trên trần thế của Người trong xác phàm nhân chỉ còn một tuần cuối cùng. Toàn bộ thời giờ của Người là chỉnh sửa lại những điều căn bản cho Thánh Đô: Người đã thanh tẩy Đền Thờ (21, 12-17); cảnh cáo Israel phải lo sinh hoa trái (21,18-22). Người chỉnh đốn lại hàng lãnh đạo Do Thái qua 3 dụ ngôn trả lời cho lời chất vẫn của họ về cội nguồn quyền bính của Người (21,23-22,14).

        Phụng vụ Lời Chúa Tin Mừng năm A suốt 3 tuần liên tiếp cho nghe 3 dụ ngôn trên. Qua 3 dụ ngôn đó với nhiều nét ẩn dụ, Đức Giêsu buộc họ phải xét lại thái độ sống trong quá khứ của họ, với hy vọng là họ sẽ tỉnh ngộ, hối hận, hoán cải và tin vào Người. Tiếc thay, chẳng những họ không tỉnh ngộ mà lại còn dấn thân sâu hơn vào các sai lầm của họ. Họ họp lực lại với nhau kể cả liên kết với thế lực đời để bày kế hãm hại Người. Đáp lại 3 dụ ngôn của Đức Giêsu cảnh cáo họ, họ đã đáp lại bằng 3 vấn đề hóc búa đặt ra để gài bẫy, để thử thách Người: vấn đề nộp thuế cho đế quốc; vấn đề kẻ chết sống lại; và vấn đề giới răn nào trọng nhất. Tin mừng của Chúa Nhật 29 A Mùa thường niên là trích đoạn về vấn đề nộp thuế cho Rôma.

        Liên quan tới 3 chủ đề trước, các thủ lãnh Do Thái chỉ mới có thái độ chất vấn Đức Giêsu về cội nguồn quyền bính của Người mà thôi; còn trong đoạn văn hôm nay, Matthêu mở đầu bằng một câu nói thẳng ra các đối thủ có âm mưu, dự tính rõ ràng để cài bẫy Đức Giêsu: “bấy giờ những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy” ( Mt 22,15). Lc 20,20 nói huỵch toẹt ra là các kinh sư và thượng tế (ở câu 19) “rình rập và sai một số người giả bộ công chính đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giêsu lỡ lời để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn”. Thực vậy các thủ lãnh Do Thái giáo: Thượng Tế, kỳ mục, Pharisêu (Mt 21, 23-45) bị Đức Giêsu “lật tẩy” qua 3 dụ ngôn đã có ác ý “tìm cách bắt Người nhưng lại sợ dân chúng vì chúng cho Người là một ngôn sứ (Mt 21, 46), do đó phải tìm cách gài bẫy Người để có lý do “chính đáng” mà bắt Người.

Nhóm chủ mưu là các người Pharisêu! Và âm mưu của họ thật là thâm độc, bỉ ổi, đánh mất cả phẩm tính “biệt phái” của họ. Họ đã bắt tay, liên minh với kẻ thù truyền kiếp của họ là phe nhóm Hêrôđê để tạo nên gọng kìm – chính trị, tôn giáo phối hợp – để gài bẫy Đức Giêsu. Rồi khi xét xử, làm chứng gian tố cáo Đức Giêsu tại dinh thượng Tế Caipha thì 1 phần các Pharisêu cũng có mặt (x. Mt 16, 57 vì hầu như tất cả các kinh sư đều là Pharisêu)

Thật vậy, các Pharisêu là tượng trưng cho tinh thần bất nhượng bộ về tôn giáo, nghĩa là phải sống triệt để theo luật, thành văn lẫn truyền khẩu. Và một cách chính thức, họ tượng trưng cho những người quyết tâm bảo vệ sự tự do bản sắc tôn giáo và dân tộc của dân Chúa trước quyền bính của Rôma tại Palestin. Trong khi đó, Nhóm Hêrôđê lại thân với Rôma vì đế quốc nâng đỡ các quận vương xuất thân từ dòng tộc vua Hêrôđê Cả. Nhóm này chủ trương hợp tác với kẻ chiếm đóng vì điều đó có lợi cho họ.

Về chính trị, xã hội lẫn tôn giáo, 2 nhóm này kình chống nhau. Vậy mà giờ đây họ lại đứng cùng một phe, tạo thế giọng kìm chèn ép tìm hại Đức Giêsu. Ác ý quá rõ ràng!

Là chủ mưu, nhưng nhóm Pharisêu không đích thân ra mặt, vì họ khinh ghét phe Hêrôđê và nhất là vì lập trường chống đối của họ đối với Rôma là đã quá rõ nên nếu các bậc thầy trực tiếp ra mặt tra hỏi thì không phù hợp và dễ bại lộ âm mưu ngay.

Tin Mừng hôm nay là trích đoạn nói về việc Nhóm biệt phái và Hêrôđê bắt tay liên mình tìm kế hại Đức Giêsu. Vấn đề họ đặt ra là: “có được phép nộp thuế cho César không? Đức Giêsu đã khôn khéo giúp họ nhận ra một thực tại nơi họ minh chứng rằng họ đang chấp nhận sống và hưởng 1 số quyền lợi do chế độ Rôma mang lại (sử dụng đồng tiền Rôma). Từ đó, thay vì trả lời trực tiếp, Người mời họ hãy đặt đúng vị trí của mình trong tương quan với trần thế và với Thiên Chúa: “của César hãy trả về César; của Thiên Chúa hãy trả về Thiên Chúa”.

CẤU TRÚC Mattheu 22, 15 – 21  và SUY NIỆM

  1. Mưu đồ của các biệt phái (Mt 22,15)

  • Chủ mưu: các biệt phái

  • Âm mưu bộc lộ qua thái độ “bàn bạc với nhau” hàm ý gài bẫy

Mục đích: làm Đức Giêsu lỡ lời mắc bẫy

  1. Diễn tiến mưu đồ (Mattheu 22, 16 -17)

  • Họ sai các môn đệ của họ phối hợp với phe Hêrôđê tạo thế gọng kềm

  • Tạo tình huống buộc Đức Giêsu phải lên tiếng như một bậc thầy uy tín:

– Mở đầu bằng lời chào cung kính: Lạy Thầy = Rabbi.

– Khen Đức Giêsu chân thật, cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa.
– Không thiên vị, không cứ bề ngoài mà đánh giá.

  • Cái bẫy: xin ý kiến Đức Giêsu: “Có ĐƯỢC PHÉP nộp thuế cho César?”.

Chủ mưu là nhóm biệt phái. Nhóm này về chính trị họ không ưa gì chính sách cai trị của Rôma. Họ tượng trưng cho những người quyết tâm bảo vệ sự tự do của dân Chúa trước quyền bính Rôma tại Giuđê.

Phe Hêrôđê lại là nhóm thân với chính quyền Rôma và có khuynh hướng theo văn hóa Hy Lạp. Vì thế, về cả 2 mặt chính trị lẫn tôn giáo, nhóm này hoàn toàn đối lập với nhóm Pharisêu.

Vậy mà giờ đây, họ tạm dẹp các hiềm khích để bắt tay lập mưu hãm hại Đức Giêsu.

       Rabbi: Hi lạp là didaskalê. Họ gài Người bằng lối xưng hô dành cho các bậc thầy giảng dạy Luật, hàm ý lời Người nói ra là chuẩn mực dân phải theo, có vậy mới kết án vu cáo Người là xách động chống thuế được (x. Lc 23, 2).

         Tiếp đến họ dụ Người vào bẫy bằng những lời không thực tâm: họ giả khen Người là chân thật; Người dạy đường lối của Thiên Chúa cách trung thực, Đấng, có thẩm quyền và không thiên vị ai. Họ nâng Người lên cao, tôn vinh như một bậc thầy mẫu mực lý tưởng…nhằm thực thi ác ý của họ là nếu Người lỡ lời là họ “buông tay” để Người rơi vào cạm bẫy. Tuy nhiên trong thâm tâm ý của Mattheu, ông đã dùng những lời giả dối ấy để mặc khải Đức Giêsu chính thực là con người như vậy. Thật vậy, “chân thật” (thành tín = ,ème: Xh 34, 6; Đnl 7.9; Tv 31, 6), “không thiên vị” (Hc 35, 13) là những thuộc tính cuả Thiên Chúa; còn “không xét đoán bề ngoài, không coi mặt đặt tên là phẩm tính của Đấng Emmanuel (Is 11, 3 – 4). Mattheu đã dùng ác ý của địch thủ để phác họa vài nét dung mạo thần linh và Mêsia của Đức Giêsu.

Cái bẫy nằm ở hai yếu tố: “có được phép” và “đóng thuế

– Có được phép…không?: Kiểu nói đặc thù của Mattheu (12, 2. 4. 10. 12; 14. 4; 19. 3; 20, 15: 27, 6). Đây là câu hỏi mà người do thái mộ đạo luôn tự đặt cho mình và là câu mà các giáo sĩ có nhiệm vụ giải đáp trong cả ngàn nố lương tâm nêu lên do cuộc sống thường nhật. Nó có ý nghĩa quy thần: trước mắt thiên Chúa, nghĩa là dưới ánh sáng của lề Luật, có được phép nộp thuế không? (chú giải phúc Am Chúa Nhật A MTN trang 341)

  • Nộp thuế: thời Đức Giêsu, người Do thái ở Giuđê phải nộp cho Rôma hai loại thuế: thuế gián thu là thuế mà mọi công dân đều phải nộp (thuế cầu đường, hải quan, lợi tức…) và thuế cống dành cho các thuộc địa, kẻ bại trận gồm thuế điền địa và thuế thân phải nộp cho nhà vua. Mọi người Do thái từ 14 tuổi trọn cho đến 60 tuổi đều phải nộp thuế thân. Người Do thái rất ghét loại thuế cống lắm vì đó là dấu chỉ của sự lệ thuộc, thần phục, nên nhóm nhiệt thành coi việc từ chối nộp thuế cống là một bổn phận tôn giáo, Luật Do thái không có thuế cống. (sđđ trang 337)

Họ cài Đức Giêsu vào thế trả lời nhân danh Lề Luật: nếu Đức Giêsu bảo phải đóng thuế cống thì Luật không có dạy và trong thực tế là đi ngược lòng dân Do Thái, do đó sẽ bị coi là phản quốc, theo ngoại bang chống lại dân và Lề Luật; Nếu bảo “không” thì bị phe Hêrôđê buộc tội Người theo phe Nhiệt Thành làm loạn cổ võ việc chống thuế.

  1. Câu đáp của Đức Giêsu ( Mt 22, 18-21)

* Biết rõ ác ý của họ,Người nói huỵch toẹt ra hai cụm từ:
“sao thử Ta”, “kẻ giả hình”(đạo đức giả)

* Giải quyết vấn đề:

– Xin xem loại đồng tiền được dùng để nộp thuế
– Chất vấn họ về đồng hình và danh hiệu ghi trên đó: của ai?
– Họ đáp: “của César”
– Kết thúc” của César trả lại César; của Thiên Chúa trả vè Thiên Chúa.

“đồ giả hình” = kẻ đao đức giả: cụm từ này trong tiếng Hilap ám chỉ một vai diễn, một hài kịch, ám chỉ một người hay một tật xấu: bên ngoài tỏ vẻ ta đây là đạo đức, nhân nghĩa nhưng thực chất là gian ác, vô luân. Trong trường hợp đang khảo sát, nhóm thử thách Đức Giêsu bề ngoại đang tỏ ra như rất mến phục Người, yêu Lề Luật, thương dân nước nhưng thực ra tất cả chỉ là trò hề, đóng kịch, là vai diễn chứ thực chất họ không là như vậy. Đức Giêsu thấy tận tẩy của họ: Người vạch mặt để cảnh tỉnh họ.

 Đồng tiền dùng để nộp thuế: tức đồng tiền do đế quốc Rôma phát hành, có giá trị trên toàn đế quốc. Tiền được đúc bằng đồng đỏ hoặc bằng bạc. trên đồng tiền được khắc hình và tên của hoàng đế tại vị, lúc xảy ra sự việc là thời hoàng đế Tiberio. Khi nộp các thuế trực thu như thuế thân, thuế điền thổ… thì không được nộp bằng tiền địa phương mà phải nộp bằng hiện vật hoặc bằng tiền này.

Đối với người Do thái, sử dụng đồng tiền đế quốc là một nỗi nhục: về tôn giáo, việc khắc hình hoàng đế như một thần linh là một sự phạm thượng đối với Thiên Chúa vì luật cấm tạc tượng bất kỳ ai; về chính trị đây là một dấu bị lệ thuộc kẻ thống trị, họ buộc lòng phải sử dụng đồng tiền này nếu muốn yên thân để sống.

Người Do thái cũng có đồng tiền riêng được đúc bằng đông thau (kém giá trị hơn đông đỏ và bạc) dùng trong phạm vi địa phương, tế tự do thái, nộp thuế đền thờ, thập phân…

Khi Đức Giêsu đòi cho xem đồng tiền nộp thuế và nhóm biệt phái đưa ra ngay, hàm ý là họ thường xuyên dùng đồng tiền này trong giao dịch hằng ngày của cuộc sống; nghĩa là một cách mặc nhiên họ nhìn nhận quyền của đế quốc và hưởng dùng những tiện nghi do đế quốc cung cấp: thật vậy, nhờ đồng tiền này mà họ giao dịch khắp đế quốc cách tiện lợi dễ dàng thay vì trao đổi bằng hiện vật cồng kềnh bất tiện; họ hưởng dùng mọi lợi ích do đế chế mang lại.

        Vấn đề Đức Giêsu đặt ra cho họ là: Tại sao các anh hưởng dụng những tiện ích do ngoại bang đem lại qua đồng tiền Rôma, tại sao anh không trả lại cho họ đồng tiền – mà anh cho là ô uế – của họ, đồng tiền mà dùng để tạo nên những tiện ích đó?  Anh mua đồ mà không chịu trả tiền, điều ấy hợp lý không? Vậy vấn đề nộp thuế không thuộc phạm vi luật Torah. Anh đặt vấn đề sai! Và trong cụ thể, anh không ngay thẳng khi hỏi câu hỏi đó bởi vì chính bản thân anh đã dùng tiền Rôma, anh đã nộp thuế nên họ mới để anh yên.

        Của Cesar trả về cho Céar và của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa:  Trong cái nhìn Kinh Thánh, tất cả quyền lực đế quốc trần gian đều là công cụ trong tay Thiên Chúa. Người sử dụng Ai Cập (Is 7, 18) Assua (Is 10, 50 – 19), Babylon (Gr 25, 9-13), Ba Tư (Is 45, 1 – 7) để phục vụ chương trình cứu độ của Người, cụ thể là để dạy dân Chúa phải biết tuân phục Chúa. Thời Hy  Lạp, Rôma cũng rút ra bài học ấy (x. Đn 2, 21. 37 – 38; Cn 8, 15); vậy César cũng chỉ là công cụ để Thiên Chúa thực hiện công trình của Người bất chấp César không biết Thiên Chúa, hay chống đối Chúa Thật vậy, Chúa đã dùng lệnh kiểm tra dân số của hoàng đế Augustô để hoàn tất lời ngôn sứ về việc Đấng Mêsia phải sinh ra tại Bêlem (x. Lc 2, 1-7); Ác ý của Hêrôđê Cả đã được dùng để các lời ngôn sứ ứng nghiệm (x. Mt 2, 16 -23); quyền bính của Philatô cũng là do Thiên Chúa (x. Ga 19, 11). Vậy thế quyền chỉ là một dạng của quyền Thiên Chúa trao cho nhân loại trong công trình sáng tạo. Quyền bính này mang nhiều nét tiêu cực là vì đã bị tội làm lệch lạc. Do đó, một cách bình thường, tuân phục thế quyền hợp pháp là một cách tuân phục Chúa; nhưng nếu thế quyền đi ngược luật lệ, mệnh lệnh Thiên Chúa thì lúc ấy phải vâng lệnh Thiên Chúa hơn là vâng lệnh loài người (Cv 4, 18 – 20); “của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”. Ở đây Đức Giêsu không có ý phân định ranh giới giữa hai phạm vi hay hai lĩnh vực trong đó Thiên Chúa và hoang đế sẽ làm chúa tể trong những gì liên quan đến mình: Đức Giêsu cũng không bảo rằng sự vâng phục theo thế quyền có thể được quan niệm cách độc lập với sự vâng phục Thiên Chúa. Đối với ai tin Đức Giêsu, quyền Thiên Chúa phải là chuẩn mực tối thượng. Việc tuân phục thế quyền và tuân phục cho tới mức nào là tùy thế quyền có tương hợp với luật yêu thương của Chúa tới mức độ nào.

  1. TÓM KẾT

        Đức Giêsu đã thoát lưới dò của địch thủ, đồng thời cảnh tỉnh họ hãy nhận ra vị trí của họ trong thực tại trước mắt. Người muốn đặt mọi vật, sự việc vào đúng vị trí của chúng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sứ điệp chính là câu đáp của Đức Giêsu “của César trả về cho César, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”: Tất cả đều là công cụ trong tay Thiên Chúa. Thiên Chúa đang điều khiển dòng lịch sử đi tới nơi Người muốn và theo cách thức của Người. Vua, chúa, mọi luật lệ, định luật thế trần đều là thọ tạo trong tay Chúa. Vậy cho dù hoàn cảnh thế nào đi nữa, kẻ tin trong thân phận phàm nhân, hãy tuân phục chúng vì đó là một cách tuân phục Chúa. Tuy nhiên chuẩn mực tối thượng là ý Chúa. Mọi sự khác đều phải được điều chỉnh lại, sao cho phù hợp với đường lối thánh ý Chúa.

Frère Pierre Đình Long FSC