CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN NĂM C

SUY TÔN THÁNH GIÁ
(Ga 3, 13-17)

Biểu tượng của ngành y là một con rắn quấn quanh một cây gậy.
Biểu tượng của ngành dược lại là con rắn quấn quanh cái ly.

  

 Biểu tượng ngành Y                                      Biểu tượng ngành Dược

      Trong chúa nhật lễ Suy Tôn Thánh Giá hôm nay, Phụng vụ cho chúng ta nghe đoạn tin mừng thánh Gioan 3,13-17. Trong đoạn tin mừng này Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô về việc Môsê đúc con rắn đồng trong sa mạc để cứu dân Do Thái khỏi chết. 

          Chúa Giêsu liên tưởng đến sách Dân số: “Ông Mô sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống” (Ds 21,9). Con rắn chữa lành, nếu nạn nhân tin tưởng và nhìn lên.

          *Trong Tân ước Chúa Giê su cũng nhắc đến con rắn khi Ngài nhắn nhủ các tông đồ: “ Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu”. (Mt 10,16). Trong cuộc đàm đạo với Nicôđêmô, Chúa đã nhắc đến con rắn đồng: “Như ông Mô sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3,14-15)

          *Sau những dấu lạ vĩ đại, qua Mô sê, Thiên Chúa đã giải thoát dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai cập. Nhưng trong cuộc hành trình dài đằng đẵng qua sa mạc, dân đã mệt mỏi, đã nản chí, họ kêu trách Thiên Chúa và Mô sê. Chúa cho rắn độc cắn chết nhiều người. Họ ăn năn hối lỗi . Chúa tha thứ , Ngài sai Mô sê đúc một con rắn đồng treo lên cây cột. Người nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng đó thì được sống.(Ds 21,4-9).

          Sau khi kêu trách Thiên Chúa và bị đánh phạt, dân Do Thái mới nhìn lại mình, mới thấy tội lỗi của mình. Nhìn lại quá khứ, họ mới thấy tình thương bao la của Thiên Chúa. Và chỉ có Chúa mới có thể cứu họ khỏi chết.

           *Sứ mệnh Thiên Sai của Chúa Giê su là đến trong thế gian, phải chịu đau khổ và phải chết rồi phục sinh, để cứu chuộc thế gian. Thế nhưng, từ những bậc thông luật đến thứ dân không ai hiểu sứ mệnh này. Họ chỉ hiểu theo quan điểm của riêng họ. Ngay cả các tông đồ thân tín, mặc dầu được Chúa thông báo nhiều lần, cũng không hiểu hay không muốn hiểu, đôi khi còn can ngăn Chúa thực thi sứ mệnh này. Trong cuộc tọa đàm lúc đêm khuya với Nicôđêmô, Chúa Giê su cũng nhấn mạnh:  Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,14-15).

     *Ngay từ khi nguyên tổ loài người phạm tội nghịch cùng Thiên Chúa, Người đã hứa ban ơn cứu độ. Thời gian đã mãn,Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian là vì Người yêu thế gian và muốn cứu thế gian, với điều kiện là thế gian phải tin vào Con của Người. Thực ra kẻ không tin, không yêu thì đã bị phạt rồi. Đứa con thứ đi hoang, không tin vào tình yêu của người cha nhân hậu, tự nó đã hành hạ nó, tự nó đã phạt nó, chưa cần người cha quở mắng hay ra hình phạt. Tội của nó là chuộng sự giả dối hơn tình thương của người cha. Chuộng bóng tối hơn ánh sáng. Nó đã phải trả giá cho sự lựa chọn này: đói khổ, rách rưới, hôi hám, thua cả bầy heo. Không tin ở tình yêu Thiên Chúa, không đón nhận ơn cứu độ từ Con của Người, là sự thiệt thòi, là hình phạt rồi.

         Chuộng bóng tối thì sẽ luôn tăm tối. Còn nhớ le mythe de la caverne– thần thoại cái hang, cha Maïs dạy: mọi người ở trong hang, nhìn những bóng mờ trên tường, phản ánh từ ánh sáng lờ mờ nơi cửa hang, nhưng ai cũng tưởng đó là hình thật. Chỉ khi có người ra khỏi hang, trở vào mới nói cho mọi người rằng đó chỉ là bóng mờ. Những người ở trong hang chịu thiệt thòi là không thấy hình ảnh thật, vì họ quen với bóng mờ và vì họ chấp nhận bóng mờ là thật.

          Từ rất lâu trước, từ khi dân còn lưu lạc trong sa mạc, Thiên Chúa đã dùng con rắn đồng làm dấu chỉ Con của Ngài sẽ phải chết treo trên Thập giá. Nhưng nào mấy ai hiểu được dấu chỉ ơn cứu độ này, nào mấy người đón nhận ơn cứu độ này, ngay cả trong thời Tân ước.

Lạy Chúa , xin cho chúng con biết thân phận tội lỗi của chúng con.

cho chúng con nhận ra tình thương bao la hải hà của Chúa qua cây Thánh Giá để chúng con được ơn cứu rỗi.

Nguyễn Đức Lân