CHÚA NHẬT PHỤC SINH

Bài 1

Cv 10,34a.37-43; Ga 20,1-9
Chủ đềDấu chỉ giúp tin nhận Đức Giêsu đã sống lại:
LỜI CHÚA: nền tảng của đức tin Phục Sinh.

* Ga 20,8b.9: Ông đã thấy (Ngôi mộ trống ngăn nắp) và ông đã tin. Thật vậy trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.

* Cv 10,40.42: Thiên Chúa… đã cho Đức Kitô trỗi dậy, xuất hiện tỏ tường trước chúng tôi… Và Đức Kitô truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân.

Halleluia – Chúa đã sống lại! Thánh Phaolô mời ta bước vào cuộc sống mới: “Thưa anh em, anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy men lên sao?… Vì thế anh em hãy … lấy lòng tinh tuyền và chân thật mà ăn mừng đại lễ” (bài đọc 2: 1Cr 5,6b.8). Mùa Phục Sinh đã tới. Men mới là Đức Kitô phục sinh đã thấm nhập và hoạt động trong nhân tính của chúng ta. Từ nay cuộc sống của người kitô hữu trở nên đầy ý nghĩa thần linh nhờ ánh sáng phục sinh soi chiếu. Đức Giêsu đã sống lại! Đó là niềm vui, niềm hy vọng, lẽ sống và nền tảng của đức tin Kitô giáo (x. 1Cr 15,3.12-24).

Trong Mùa Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa cũng đưa chúng ta vào bầu khí mới: bài đọc 1 của Chúa Nhật thường trích các sách Cựu Ước, nay được thay thế bằng các đoạn trích từ sách Công Vụ Tông Đồ, nói về giai đoạn khai sinh của Giáo Hội. Từ nay, với men phục sinh, toàn thể nhân loại trở thành Dân Mới của Chúa không ai bị loại trừ. Lời Chúa, đức tin, chứng từ của Giáo Hội, và chính Giáo Hội là phương thức Thiên Chúa dùng để bày tỏ Thánh Ý Người cho nhân loại và đón nhận biến đổi nhân loại thành DÂN, CON của Chúa. Nội dung của Lời Chúa trong phụng vụ Mùa Phục Sinh đương nhiên hướng về Mầu Nhiệm Đức Giêsu từ cõi chết sống lại. Tuy nhiên, điểm mà Lời Chúa Chúa Nhật I muốn nhấn mạnh không là SỰ KIỆN sống lại mà là BẰNG CÁCH NÀO? NHỜ NHỮNG YẾU TỐ NÀO mà các môn đệ, cũng như các tín hữu sau này nhận ra và tin được rằng Đức Giêsu đã phục sinh?

Tin Mừng thuật lại sự việc xảy ra ngay tại ngôi mộ đã an táng Đức Giêsu vào “lúc trời còn tối, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần”. Mọi sự bắt đầu với việc bà Maria Madalena đi ra mồ Chúa trong tâm tình VIẾNG MỘT NGƯỜI THÂN VỪA MẤT. Điều bà nghĩ trong đầu chắc chắn Đức Giêsu là một xác chết! Do đó, trong lúc trời tranh tối tranh sáng, khi từ xa nhìn thấy tảng đá lấp cửa mồ đã bị lăn qua một bên. Hoang mang, hốt hoảng, chắc là bà không đến tận nơi để xem cho rõ sự việc như thế nào, nhưng đã sợ hãi vội chạy về báo cho Phêrô và người môn đệ được Chúa yêu một cái tin động trời, bất hạnh do CHÍNH BÀ TƯỞNG TƯỢNG ra: Đã có người lấy trộm xác Đức Giêsu: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Nghe tin chẳng lành, hai môn đệ chạy vội ra mồ. Chắc chắn là lòng đầy bối rối, lo lắng không biết thực hư thế nào và rồi phải xử lý làm sao? Người môn đệ Chúa yêu chạy nhanh hơn. Ông đến mồ trước, nhưng không vào; Từ bên ngoài nhìn vào, ông chỉ thấy chung chung là những băng vải liệm còn để lại trong đó. Phêrô đến sau, và ông chạy thẳng vào trong mồ. Ông là người đầu tiên có mặt NGAY TẠI HIỆN TRƯỜNG. Ông thấy rõ từng chi tiết: hiện trường ngay ngắn, ngăn nắp, không có dấu hiệu gì cho thấy xác bị đánh cắp, các băng vải liệm, khăn che đầu được xếp cẩn thận đặt để đúng nơi đúng chỗ. Phêrô là CHỨNG NHÂN ĐẦU TIÊN của sự kiện NGÔI MỘ TRỐNG. Lúc đó người môn đệ Chúa yêu mới vào trong mồ. Ông cũng thấy những gì Phêrô đã thấy và bản văn Tin Mừng viết thêm “VÀ ĐÃ TIN”. Thời điểm đó, Đấng Phục Sinh chưa hiện ra cho bất kỳ ai. Vậy yếu tố nào giúp ông TIN mà không cần tiếp xúc bằng giác quan với Đấng Phục Sinh? Lúc đó ông được ơn soi sáng “HIỂU KINH THÁNH”.

Thật ra, lời Kinh Thánh liên quan đến phục sinh đã được Đức Giêsu loan báo trước, lúc Người còn sinh tiền. Nhưng khi đối đầu với cái chết đau thương, khủng khiếp của Đức Giêsu, các môn đệ không còn nhớ gì đến phục sinh nữa. Giờ đây đứng trước ngôi mộ trống với những chi tiết phản bác việc cho rằng xác bị đánh cắp, các ông nhớ lại và hiểu Lời Đức Giêsu, cuối cùng khám phá ra và tin Người đã phục sinh mà không cần chứng kiến Người hiện ra.

Sau khi Chúa thăng thiên, các tông đồ đi khắp nơi công bố Tin Mừng phục sinh cho mọi người. Bài đọc 1 hôm nay trích từ Sách Công Vụ, thuật lại lời rao giảng của Phêrô cho viên sĩ quan Roma tên Cornêliô để dọn lòng ông đón nhận đức tin kitô giáo. Nội dung chính của lời rao giảng là mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Giêsu. Các tín hữu thế hệ sau Thăng Thiên, không ai được gặp Đấng Phục Sinh, không mấy ai thấy ngôi mộ trống; Nhưng họ vẫn có lời Chúa nhờ lời rao giảng của các tông đồ và của cộng đoàn tín hữu, kèm theo chứng từ tông truyền làm nền tảng (x. Cv 10,12), nhờ đó dù không trực tiếp gặp Đấng Phục Sinh bằng giác quan thể lý thì họ vẫn có được các yếu tố nền để tin rằng Đức Giêsu đã phục sinh.

Lời Chúa và chứng từ tông truyền mãi là yếu tố căn bản giúp tín hữu mọi thời, mọi nơi có điểm tựa vững chắc để tin rằng Chúa đã thật sự phục sinh.

Đời sống mỗi tín hữu và cuộc sống cộng đoàn kẻ tin đồng tâm nhất trí là máng chuyển lưu truyền đức tin phục sinh cho muôn thế hệ.

Bài 2

 Người môn đệ kia nhìn thấy những băng vải còn ở đó… (20,5) … và khăn che đầu của Đức Giêsu … cuộn lại, xếp riêng ra một nơi (20,7) … Ông đã thấy và đã tin (20,8). Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết (20,9).

 “Đức Giêsu đã sống lại!”, đó là nền tảng của đức tin Kitô giáo, của niềm hy vọng và của hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta (x. 1Cr 15,17-19).

Nhưng thế nào là “phục sinh”, là “sống lại”? Khi nói “Đức Giêsu phục sinh”, chúng ta dễ bị rơi vào cơn cám dỗ nghĩ một cách đơn giản là thân xác bị đóng đinh của Đức Giêsu nay hồi sinh, quay trở về lại với cuộc sống trần thế nghĩa là vẫn cứ lệ thuộc vào thời gian, không gian, và các định luật vật lý để rồi cuối cùng cũng phải để Tử Thần khuất phục như Ladarô. Đối với Đức Giêsu, một khi đã phục sinh rồi thì không còn chết nữa mà toàn thể nhân tính của Người đi vào trong cuộc sống vĩnh cửu của Thiên Chúa (x. GLHTCG 646), và còn hơn thế nữa, nhân tính của Người còn được tôn vinh là CHÚA ngang hàng với Chúa Cha (Pl 2,11).

Và việc Đức Giêsu phục sinh và được tôn vinh không phải là một ân huệ riêng chỉ dành cho bản thân Người, mà đó là bước khởi đầu để toàn thể nhân tính nhân loại sẽ được thông phần sự sống của Thiên Chúa như Người đã hứa cho các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em… và sẽ đem anh em về với Thầy để Thầy ở đâu thì anh em cũng ở đó” (x. Ga 14,2-3) và Thánh Phaolô cũng chia sẻ một xác tín (1Cr 15,20-24).

Và Đức Giêsu thực hiện lời hứa ấy ngay tức khắc khi Người phó thác Thần Khí trong tay Cha:

– Hôm nay anh được ở với tôi trên thiên đàng (Lc 23,43).

– Viên sĩ quan và bọn lính tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa (Mt 27,54).

– Các hiện tượng bất thường (Mt 27,51-54) cho thấy Đức Giêsu đã đi trọn kiếp người kể cả xuống ngục Tổ Tông (Shéôl = Âm Phủ) để rồi Người mở tung cửa Âm Phủ cho các vong nhân bao đời bị giam cầm ở đó được giải cứu và thông dự vào sự sống mới do Thập Giá Người mang lại (x. CGKPV, Mt 27,51-53 và chú thích).

Như vậy từ nay trong con cái loài người đã có được một con người như chúng ta được thông hiệp trọn vẹn, tuyệt đỉnh vào cảnh vực thần linh, có quyền năng thần linh và được muôn loài cả trên trời, dưới đất và trong Âm Phủ tôn thờ như một vị Thiên Chúa (x. Pl 2,10-11).

Vậy tuyên xưng Đức Giêsu phục sinh, chủ yếu, không phải là xác nhận bằng lý trí và giác quan sự kiện xác của Đức Giêsu hồi sinh về lại cuộc sống trần gian này; Mà là tin rằng Đức Giêsu đã đi vào vinh quang thần linh, rằng nhân tính của Người vốn là một thọ tạo giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, đã được tôn vinh là Kurios, đồng bản thể với Thiên Chúa Cha và nhờ đó nhân tính của từng người và mọi người trong nhân loại đều được Người đưa vào vinh quang thần linh ấy, được thông chia thần tính với Thiên Chúa: được gọi Thiên Chúa là “Abba”, được đồng thừa kế với Đức Kitô (Rm 8,14-17).

Còn đối với vũ trụ và dòng lịch sử, khi tuyên xưng Đức Giêsu phục sinh là chúng ta nói rằng Người ĐANG SỐNG (HẰNG SỐNG): Người đang điều khiển dòng lịch sử này, Người là Đấng đưa thời gian tới hồi viên mãn, là Đấng quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền thủ lãnh của Người (Ep 1,10) để rồi cuối cùng Người dâng tất cả về lại cho Thiên Chúa Cha (1Cr 15,24). Lúc đó, Thiên Chúa là “tất cả trong mọi sự” = ta panta ên pasin (1Cr 15,28; Ep 4,6) nghĩa là trong biến cố lịch sử Đức Giêsu phục sinh, Thiên Chúa đã đưa công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa đến chỗ hoàn tất: trong nhân loại đã có được một con người đích thật là “hình ảnh Thiên Chúa” trọn vẹn (Cl 1,15), là “Trưởng Tử” của Thiên Chúa, trong Người (Đức Giêsu) Thiên Chúa hòa giải và ban bình an xuống cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời (Ep 1,18-20).

Vậy điều mà Giáo Hội tuyên xưng khi công bố Đức Giêsu phục sinh không phải là một sự nhìn nhận thuần lý của lý trí về một sự kiện lịch sử là xác của Đức Giêsu sống lại, mà là một lời tuyên xưng đức tin rằng: Thiên Chúa đã đưa công trình sáng tạo và cứu độ của Chúa đến chỗ hoàn tất; Đức Giêsu phục sinh là hoa trái đầu mùa (1Cr 15,20 “aparkhe” dịch sát là “những của đầu mùa”) để rồi đến ngày Quang Lâm thì tất cả chúng ta cũng sẽ được phục sinh tất cả (1Cr 15,23, Rm 8,23), được hưởng trọn vẹn, sung mãn quyền làm con Thiên Chúa.

Như vậy chúng ta vừa thoáng suy tư về tầm cỡ phổ quát siêu lịch sử, hoàn vũ và thần linh của biến cố phục sinh của Đức Giêsu. Vậy yếu tố nào là căn bản giúp nhân loại mọi thời, mọi nơi nhận ra được rằng Đức Giêsu đã phục sinh, đang sống và điều khiển vũ trụ này?

Sự kiện thân xác Đức Giêsu sống lại là một biến cố vĩ đại xảy ra trong một thời điểm của dòng lịch sử. Tuy nhiên chỉ có một số nhỏ người được chứng kiến biến cố ấy bằng giác quan với những phản ứng tin hay chống lại khác nhau tùy người. Trong khi đó PHỤC SINH, cho đến tận ngày hôm nay và chắc chắn là còn tiếp tục mãi mãi, là lẽ sống, là nguồn hy vọng, là ánh sáng dẫn đường… của toàn thể nhân loại mọi nơi mọi lúc. Điều gì đã làm cho một biến cố lịch sử có được một giá trị siêu việt vượt thời gian và trở nên nguồn sống cho toàn vũ trụ như thế? Trong khi những chứng nhân nhãn tiền của biến cố ấy đã chết hết; còn các bằng chứng cụ thể, khách quan thì dường như không có.

Lời Chúa hôm nay mời ta đi vào trung tâm lòng tin Kitô giáo, đồng thời cho thấy yếu tố nền tảng cho niềm tin đó là gì.

BÀI ĐỌC I: Cv 10,34a.37-43

Công vụ 10 nói về những người dân ngoại đầu tiên – Cornêliô, đại đội trưởng Rôma và gia đình – được Phêrô, tông đồ trưởng, đón nhận vào Giáo Hội. Bài đọc 1 là trích đoạn trọng tâm của Cv 10. Đây là lời rao giảng của Phêrô dọn lòng cho cả nhà Cornêliô tin vào Đức Giêsu phục sinh và đón nhận phép rửa. Phêrô tóm tắt toàn bộ sứ vụ công khai của Đức Giêsu từ sau biến cố Gioan làm phép rửa cho đến khi Đức Giêsu sống lại và thiết đặt các chứng nhân cho Người. Phêrô đã đưa ra LỜI NGÔN SỨ và chứng từ của chính bản thân để thuyết phục rằng Đức Giêsu đã thực sự phục sinh và Người là cội nguồn của ơn cứu độ cho những ai tin vào Người. Cornêliô đã tin và đồng ý gia nhập Kitô giáo. Đây có thể được coi là “Kinh Tin Kính” của cộng đoàn tín hữu tiên khởi, bao gồm những điều thiết yếu được lãnh nhận phép rửa gia nhập Giáo Hội. Danh từ chuyên môn gọi là “Kêrygma”.

1/ Tóm lược sứ vụ công khai của Đức Giêsu (Cv 10,37-39a)

Các câu 37-39 tóm lược toàn bộ sứ vụ công khai của Đức Giêsu, từ lúc Người được Gioan làm phép rửa, khởi đầu sứ vụ tại Galilê cho đến khi chịu khổ hình tại Giêrusalem. Đây là cái sườn cơ bản được các tác giả sách Tin Mừng Nhất Lãm khai triển viết lên các sách Tin Mừng của họ. Theo lời Phêrô, những biến cố ấy, mọi người đều đã biết; Bởi vì những lần hiện ra của Đấng chịu đóng đinh và tiếp đó là các chứng từ của các môn đệ rằng Đức Giêsu vẫn đang sống đã làm rung động toàn cõi Palestin khiến tên tuổi, sự nghiệp của Đức Giêsu rực sáng.

* Đức Giêsu được tấn phong (c.38a)

So với Is 61,1 câu này 38a, gợi lại việc Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, Người được Thiên Chúa tuôn tràn Thánh Thần tấn phong làm Mêsia. Thực ra Người đã tràn đầy Thánh Thần ngay từ lúc tượng thai trong lòng Trinh Mẫu và ngay lúc đó đã thi ân giáng phúc cho con người rồi: cho thai nhi Gioan và mẹ là bà Elisabet; Lúc chịu phép rửa là thời điểm mặc khải công khai cho toàn dân thôi.

*“Người thi ân giáng phúc …” (c.38b)

Hình ảnh vay mượn từ việc các vua Rôma khi đi kinh lý: thường ân xá cho các tù nhân, ban tặng tiền của cho người nghèo, ân thưởng cho thần dân có công… Cách nói này ám chỉ Đức Giêsu chính là “Mêsia – Vua” (x. Lc 3,22b) đang ngự thăm thần dân và thi thố quyền năng ban phúc cho dân mình.

*Vì Thiên Chúa ở cùng Người” (c.38c)

Chủ đề “Thiên Chúa ở cùng” xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Có Thiên Chúa ở cùng, mọi sự đều tốt đẹp; Vắng bóng Thiên Chúa là đổ vỡ, hư vong (St 3 trình bày con người sa ngã khi Thiên Chúa “vắng mặt”) Rồi trong công trình tái thiết, ở những thời điểm quan trọng của lịch sử dân Chúa, bao giờ cũng có một người được Chúa chọn để đảm nhận công cuộc của Người; Thường thì nhân vật này thấy mình cáng đáng không nổi sứ mạng nên từ chối, nhưng Thiên Chúa đoan hứa trấn an: “Ta ở cùng ngươi” (x. Xh 3,12; Gs 1,9; Gr 1,6-8…). Lời hứa đó là một bảo đảm chắc chắn rằng sứ mạng Chúa trao sẽ được hoàn thành tốt.

Với sự xuất hiện của Đức Giêsu, đặc biệt là Thập Giá và Phục Sinh, “Thiên Chúa ở cùng” không còn là một hồng ân riêng rẽ mang tính thời vụ cho từng cá nhân khi được trao sứ vụ đặc biệt nữa mà từ nay “Thiên Chúa – ở – cùng – chúng – ta” cách vĩnh viễn. Với lần can thiệp trong Đức Giêsu, Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ dân Người nữa – dù chỉ trong giây lát, hoặc chỉ thoáng qua trong ý tưởng – vì Đức Giêsu là EMMANUEL.

*Chúng tôi đây xin làm chứng

Các tông đồ làm chứng cho Đức Giêsu không chỉ giới hạn trong biến cố phục sinh, nhưng bao hàm tất cả sứ vụ lịch sử của Người: từ lúc khởi đầu đi loan báo Tin Mừng cho tới khi về trời. Đây là tiêu chuẩn để chọn một tông đồ thế chỗ Giuđa (Cv 1,21-22).

2/ Chóp đỉnh của sứ vụ Đức Giêsu (Cv 10,39b-41)

*Họ đã treo Người lên (c.39b) … Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy (c.40a): “Họ” trong câu 39b ám chỉ người Do Thái. Đối với Phêrô, “họ” là thủ phạm chính giết Đức Giêsu (x. Cv 3,13-15). 

Trung tâm và cũng là chóp đỉnh của sứ vụ Đức Giêsu chính là Thập Giá và phục sinh. Chính qua biến cố có hai mặt này mà Thiên Chúa đã tôn vinh Đức Giêsu làm CHÚA = Kurios, làm Thẩm Phán xét xử nhân loại mọi thời kẻ sống và kẻ chết. Chính trong tư cách đó, Đấng Phục Sinh đã thiết đặt các tông đồ làm chứng nhân và trao sứ mạng cho các ông.

*Ngày thứ ba: cách nói này xuất hiện lần duy nhất ở đây, trong sách Công vụ, nhưng gặp nhiều trong các sách Tin Mừng (Mt 16,21; 17,23; 20,19; 27,64; Lc 9,22; 18,33; 24,7.46 …). Đây là công thức cổ điển trong lời giảng và đức tin Kitô giáo, và được đưa vào Kinh Tin Kính (x. 1Cr 15,4).

Không nên hiểu cách nói này theo nghĩa đen của số học, nhưng theo nghĩa biểu tượng. Thật vậy, cách nói này vọng lại nhiều điển tích Cựu Ước: 

– St 22,4: “ngày thứ ba” là ngày Abraham phải hiến tế Isaac, nhưng rốt cuộc Isaac khỏi chết, mở ra một tương lai xán lạn cho Abraham.

– Hs 6,2: sau thời gian đánh phạt, cảnh cáo, “ngày thứ ba” là ngày Thiên Chúa tha thứ, hồi phục Israel. Hình ảnh hồi sinh này được Ed 37 và Mt 27,52-53 lấy lại.

– Gn 2,1: sau ba ngày trong bụng cá, Giona được cá đưa về “nhiệm sở” và ông buộc phải làm trách nhiệm đi công bố án lệnh cho thành Ninivê; Nhưng trong thực tế, lời đó lại trở thành nguyên cớ làm Ninivê sám hối và được Chúa thứ tha.

Như vậy, “ngày thứ ba” là thời điểm Thiên Chúa thực hiện ơn tha thứ, hồi phục, cứu độ; thời điểm Thiên Chúa hoàn tất mọi điều đã được loan báo, đoan hứa trong Cựu Ước; thời điểm ân huệ cánh chung được thông ban.

*Thiên Chúa đã đánh thức dậy và làm cho Người xuất hiện tỏ tường (c.40):

Đánh thức dậy, “làm chỗi dậy” là kiểu nói cổ truyền (x. Đn 12,1-3) diễn tả sự can thiệp quyết liệt chung cuộc của Thiên Chúa, ra tay giải thoát vĩnh viễn những ai thuộc về Người. Động từ này diễn tả tác động từ tư thế nằm sang đứng hay từ tình trạng ngủ sang thức và cuối cùng là từ tình trạng “chết” sang tình trạng “sống”. Vậy khi nói “Thiên Chúa đánh thức Đức Giêsu dậy” là có ý nói rằng: với Đức Giêsu, Thiên Chúa đã thực hiện ở mức độ cao nhất công trình cứu độ của Người và đây là lần can thiệp chung cuộc. Đức Giêsu, Đấng mà các tông đồ loan báo là ĐANG SỐNG chính là con người tên Giêsu mà mọi người đã từng quen biết gặp gỡ. Đức Giêsu đang sống (phục sinh) và con người bị đóng đinh thập giá trước đó vài ngày chỉ là MỘT.

– Cách nói THIÊN CHÚA đánh thức… còn nhấn mạnh đến vai trò hoàn toàn chủ động của Thiên Chúa Cha: Cha là cội nguồn tất cả, ngay cả việc Đấng Phục Sinh hiện ra cũng là tác động của Cha. Cách nói đó phù hợp với suy nghĩ của người Do Thái: Thiên Chúa Yavê là cội nguồn. Và cách nói đó cũng là cần thiết để dùng rao giảng tin mừng cho dân ngoại vì họ chưa biết Yavê là ai. Và hơn thế nữa, cách nói này còn nhắc nhớ một điểm tín lý quan trọng là niềm tin vào Đức Giêsu phục sinh không được làm lu mờ đi vai trò, vị trí của Thiên Chúa Cha trong dự tính cứu độ thần linh.

*Thiết đặt các chứng nhân (Cv 10,40b-41)

Đối tượng chính của những lần Đấng Phục Sinh hiện ra là “chúng tôi”, đó là những chứng nhân được Thiên Chúa tuyển chọn từ trước (nhắc thêm về vai trò chủ động của Cha) đồng thời họ cũng là những người được Đấng Phục Sinh chọn qua việc tỏ mình cho thấy: ở đây nhắc lại lần hiện ra ở Lc 24,36-43.

Các chứng nhân được nói trên ám chỉ các tông đồ (x. Cv 1,21-22; Ga 15,27). Chi tiết “ăn uống” càng nhấn mạnh rằng thân xác của Đức Giêsu phục sinh đang có mặt cũng chính là Đấng đã bị treo thập giá.

Mục đích của việc thiết đặt chứng nhân là để các ông đi rao giảng và làm chứng; Nhưng ở đây việc làm chứng lại tập trung vào vai trò “làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết” (c.42). Mà “xét xử” là đặc quyền của Thiên Chúa. “Xét xử” là mục tiêu chính trong chức vụ Thẩm Phán tối cao của Thiên Chúa (x. ĐN TH TK “Phán xét”. Cựu Ước I,1). Như vậy Đấng Phục Sinh trao cho các tông đồ sứ mạng làm chứng rằng Người chính là Thiên Chúa nhờ dấu chỉ Người đã phục sinh.

3/ Đức Giêsu trung tâm ơn cứu độ (Cv 10,43):

Toàn bộ lịch sử cứu độ đều quy hướng về Đức Giêsu: trong tương quan với quá khứ, “tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người”; hướng về tương lai, “ai tin vào Người thì SẼ nhờ Danh Người mà được ơn cứu độ”.

Đức Giêsu, nhất là Thập Giá và Phục Sinh, là điểm đến của mọi lời ngôn sứ (c.43a); Người là đối tượng của đức tin và cội nguồn ơn tha tội (c.43b). Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa hoàn tất mọi lời hứa trong Cựu Ước, do đó từ nay chỉ cần tin vào Đức Giêsu là nhân loại có thể hưởng trọn vẹn mọi phúc lành chung cuộc của lịch sử cứu độ ở tầm mức cao nhất. Khía cạnh ngôn sứ được nhấn mạnh ở đây là “ơn tha tội nhờ lòng Tin” (Rm 1,17; 9,33; 10,13).

 Như vậy cả nhà Cornêliô, hoàn toàn gốc dân ngoại, không hề biết Đức Giêsu lịch sử, cũng chẳng được Đấng Phục Sinh hiện ra cho thấy, thế nhưng họ đã tin vào Đức Giêsu phục sinh và trở nên môn đệ Người, được Phêrô, tông đồ trưởng đón nhận vào Hội Thánh. Yếu tố giúp họ từng bước đi tới sự hoán cải tuyệt vời đó chính là LỜI CHÚA:

– Lời Chúa biểu lộ trong dòng lịch sử qua “tất cả các ngôn sứ”

– Lời Chúa tỏ lộ trong hiện tại cuộc đời Cornêliô qua các thị kiến

– Lời Chúa tỏ lộ qua lời rao giảng và chứng từ của Phêrô

– Và nhất là nhờ CHÚA THÁNH THẦN mà Lời Chúa nối kết dân Do Thái và dân ngoại thành một trong niềm tin vào Đức Giêsu phục sinh.

TIN MỪNG: Ga 20,1-9

Sứ vụ công khai cũng như cuộc sống trần thế của Đức Giêsu khép lại với Thập Giá và với nấm mồ đóng kín. Mọi sự tưởng chừng là chấm dứt! Nhưng với các môn đệ? Vẫn còn một chút gì đó bám víu, dù rất mong manh. Vì lúc sinh thời, Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo rằng sau thập giá, ngày thứ ba Người sẽ sống lại.

Đức Giêsu đã chết, đã an táng! Nhưng Lời Người còn đó, vẫn còn vang vọng trong tâm thức của đoàn môn đệ. Lời Chúa giữ lại chút hy vọng cho họ; Và rồi cuối cùng, đúng như Lời Người đã nói trước: Người đã phục sinh. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý trong các trình thuật có liên quan đến vấn đề phục sinh là:

Cả bốn tác giả của bốn sách Tin Mừng đều đồng loạt mở đầu giai đoạn công bố Tin Mừng phục sinh bằng cùng một trình thuật: NGÔI MỘ TRỐNG.

Niềm vui phục sinh được khai mở không phải bằng những cuộc gặp gỡ thể lý, tiếp xúc nhãn tiền với Đấng Phục Sinh mà là bằng một sự ngỡ ngàng pha lẫn sợ hãi hiểu lầm: Ngôi mộ không còn xác của Đức Giêsu. Nhưng rồi niềm vui dần dần được vực dậy, hé lộ rồi bừng lên bằng việc NHẮC NHỚ LẠI LỜI CHÚA. Đức Giêsu phục sinh chưa xuất hiện, nhưng lời của Người (đã nói trong quá khứ, lẫn những lệnh truyền vắng mặt trong hiện tại qua các trung gian) đã khơi lại sinh khí cho đoàn môn đệ. Với những lời đó của Đấng Phục Sinh (hiện còn đang vắng mặt) đã làm thay đổi tận căn ý nghĩa của sự vật:

“Ngôi mộ” là biểu tượng của sự chết đã trở nên dấu chỉ loan báo phục sinh. Các thiên sứ đã dùng “ngôi mộ trống” thành dấu chứng để nhắc lại cho các bà, lẫn các môn đệ NHỚ LẠI LỜI CHÚA. Và nhờ nhớ lại Lời Chúa, họ mới hiểu (nhờ đứng trước “ngôi mộ trống”) lời Chúa và TIN.

“Ngôi mộ khép kín” đã bước qua ngày thứ ba: đó là nơi tận cùng của án phạt, của hậu quả của tội, thì giờ đây, nhờ NHỚ LẠI LỜI CHÚA mà sứ điệp sự sống thần linh đã được công bố.

Lời Chúa là nền tảng của đức tin phục Sinh! Trong Tin Mừng Gioan, chi tiết trên được nổi bật hẳn lên khi trình bày người môn đệ Chúa yêu đã tin rằng Chúa đã phục sinh trước khi Đấng Phục Sinh hiện ra cho bất kỳ người nào. Yếu tố đưa ông tới đức tin là đứng trước ngôi mộ trống được sắp xếp ngăn nắp, ông hiểu ra được ý nghĩa của lời Kinh Thánh là Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.

1/ Sự cố bất ngờ: tảng đá lấp cửa mộ bị lăn qua một bên (Ga 20,1-2)

Sự cố bắt nguồn từ việc bà Maria Madalêna đi viếng mồ Đức Giêsu, khi tới nơi thì thấy tảng đá lấp cửa mộ đã lăn qua một bên.

*Thời điểm: “vào buổi sáng sớm” và Tin Mừng Gioan còn thêm một chi tiết” lúc trời còn tối”. Chi tiết bóng tối còn sót lại ấy trước khi ánh dương quang bừng lên gợi lại St 1,1: Thiên Chúa bắt đầu công trình sáng tạo bằng cách chấm dứt cái tối tăm đang bao phủ khắp nơi và dựng nên ánh sáng. Đây là thời điểm chờ ánh sáng của ngày thứ nhất trong tuần bừng lên. Với hình ảnh so sánh trên thì ngày phục sinh được xem là “ngày khởi đầu cuộc sáng tạo mới” (x. GLHTCG 349). Một tầm nhìn mới mẻ đã đem lại vui mừng và hy vọng cho vũ trụ này.

Thật vậy, chính vào lúc chuyển đổi từ đêm qua ngày này đã xảy ra một cuộc biến đổi ý nghĩa của thực tại “ngôi mộ”. NGÔI MỘ (vốn là biểu tượng của sự chết, đi đôi với bóng đêm còn sót lại) giờ trở thành DẤU CHỈ LOAN BÁO PHỤC SINH (sự sống mới đi đôi với ngày mới đang tới).

Với Thập Giá và phục sinh của Đức Giêsu, cái chết không còn là điểm chấm dứt, là ngõ cụt hủy diệt của thân phận loài người nữa, mà trở thành ngưỡng cửa, thành “cửa khẩu” phải vượt qua để bước vào cuộc sống mới.

Với ngôn ngữ biểu tượng của Tin mừng Gioan, cách nói “sáng sớm lúc trời còn tối” diễn tả một tạo thành mới đang thành hình, một nhân loại mới sẽ sống đời sống mới do Đấng Phục Sinh mang tới nhờ đức tin.

*Mục đích ra mộ: theo Mc 16,1 và Lc 24,1 là để ướp xác; Mt 28,1 là để viếng mộ. Còn trong Tin Mừng Gioan, Madalêna ra mộ chắc là để than khóc theo tục lệ muốn kéo dài giây phút gần gũi với người thân đã mất (x. Ga 11,31). Việc làm này nói lên lòng quý mến sâu xa của bà đối với Đức Giêsu, nhưng còn quá nặng tình cảm nhân loại muốn giữ người thân lại cho riêng mình (x. Ga 20,17). Tình cảm ấy giam hãm bà trong phạm trù giác quan, trong sự kiện vật chất rồi đưa đến suy luận chủ quan ngay cả khi đứng đối diện với Chúa (x. Ga 20,15); Nó cản bà đạt tới cái nhìn đức tin để nhận ra được ý nghĩa của sự kiện, dấu chỉ.

*Phản ứng: trong tâm trí, Madalêna đi tìm một xác chết, do đó khi thấy tảng đá lấp mộ bị lăn qua một bên, bà nghĩ ngay có kẻ đã lăn tảng đá đi và đã lấy mất xác Thầy. Thế là bà vội chạy về loan báo cho Phêrô và người môn đệ khác những gì bà suy đoán.

Lòng mến của Madalêna, phản ứng của bà trước sự kiện kèm theo lối suy luận sai lạc ý nghĩa của biến cố là một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở chúng ta rằng thiện chí, đạo đức, trí khôn, các năng lực tự nhiên của nhân loại không đủ để đưa chúng ta tới niềm tin vào Đức Giêsu phục sinh, nếu các năng lực ấy không được soi sáng, hướng dẫn bởi LỜI CHÚA. Lúc đó dù Đấng Phục Sinh có hiện ra đứng ngay trước mắt thì cũng chẳng nhận ra (x. Ga 20,15).

Chi tiết trên cho thấy niềm tin Đức Giêsu phục sinh không thể nào là hoa trái của suy luận, của trí tưởng tượng nhân loại được. Đó là một MẶC KHẢI thần linh đã được Thiên Chúa chuẩn bị bằng LỜI CHÚA suốt dòng lịch sử cứu độ. Lời Chúa phải được gieo vãi, lưu truyền để rồi khi “đến thời đến buổi” sẽ trổ sinh hoa trái nơi các tâm hồn muốn tìm chân lý.

2/ Khám phá ra các chi tiết bên trong ngôi mộ trống (Ga 20,3-7)

Madalêna trong cơn hoảng loạn và vội vã chắc đã không đủ sáng suốt bình tĩnh để quan sát những gì có bên trong ngôi mộ trống. Người đầu tiên khám phá tận mắt rõ ràng mọi chi tiết, ngay tại hiện trường là Phêrô.

*Ông Phêrô và môn đệ kia… cùng chạy:

Trước “tin dữ” do Madalêna thông báo, cả hai môn đệ và Madalêna đều CHẠY. Tin tức “mất xác Thầy” đã kéo cả ba người ra khỏi nhịp điệu lê lết của nỗi thất vọng ê chề do thập giá Đức Giêsu đang trì kéo họ lại. Dù chưa rõ thực hư, họ vẫn bật dậy, chạy… Chạy ra mộ (lãnh địa của người chết) nhưng thực ra Thiên Chúa đang từng bước dìu họ tới đức tin. Điều quan trọng trước tiên là phải giải thoát tâm trí mình khỏi bóng đen của thập giá sự chết. Thật vậy, làm sao nhận ra được Đấng Phục Sinh đang sống trong khi đầu óc chỉ nghĩ đến một thây ma?

*Simon – Phêrô đến sau nhưng ông vào thẳng trong mộ:

Tại sao “người môn đệ kia” đến trước mà không vào mộ ngay? Có thể có nhiều lối giải thích. Bản văn không trực tiếp cho câu trả lời. Điều bản văn Tin Mừng trình bày rõ ràng là: chính Phêrô là người thứ nhất chứng kiến cận cảnh toàn bộ chi tiết bên trong ngôi mộ trống với tình trạng nguyên tuyền của nó. Điều đó hàm ý rằng chứng từ của ông là chứng từ nền và trung thực nhất. Phêrô là người đầu tiên có mặt tại hiện trường. Ông là chứng nhân gốc.

*Ông thấy những băng vải để ở đó

Với những gì Phêrô chứng kiến: vải liệm và khăn che đầu được để riêng, đúng vị trí, xếp cẩn thận thì cách lý giải cho rằng xác Chúa bị lấy trộm phải bị loại bỏ. Theo lý trí tự nhiên, hạn hẹp, cảnh tượng này thật khó giải thích; Nhưng đối với những ai gắn bó mật thiết với Đức Giêsu thì đây đúng là một lời nhắc nhở họ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói lúc Người còn sống và những lời Kinh Thánh.

Tất cả trở thành DẤU CHỈ khơi gợi lòng tin.

3/ Nền tảng cần thiết để đưa đến đức tin (Ga 20,8-10)

*Cần một dấu chỉ: cuối cùng, người môn đệ kia cũng vào bên trong mộ và cũng thấy rõ những gì Phêrô đã thấy. Những chi tiết bên trong ngôi mộ không thể là BẰNG CHỨNG của sự kiện Đức Giêsu đã phục sinh. Đó chỉ là một DẤU CHỈ. Để nắm được sứ điệp cần hiểu ý nghĩa ẩn phía sau dấu chỉ ấy. Đối với người môn đệ Chúa yêu, Ngôi mộ trống với những chi tiết bên trong quả là dấu chỉ cần thiết: Nó thức tỉnh ông khỏi mây mù thập giá, Nó nhắc ông nhớ lại và làm ông hiểu lời Kinh Thánh. Từ đó ông mới nghiệm ra rằng quả thật Đức Giêsu đã sống lại và ông đã TIN. Tin ngay cả trước khi được Đức Giêsu hiện ra cho thấy.

Thật vậy, lúc sinh tiền, Đức Giêsu đã nhiều lần cho đoàn môn đệ biết Người phải trỗi dậy từ cõi chết. Nhưng điều đó dường như không làm cho các môn đệ lưu tâm vì các ông đang theo đuổi những ước vọng riêng tư của mình (x. Mc 9,34) đến dộ ganh tỵ với nhau (Mc 10,41) … Cho tới lúc, Thập Giá đột ngột ụp xuống trên Đức Giêsu, các ông hoảng loạn, bỏ trốn hết, quên bẵng luôn lời Đức Giêsu loan báo phục sinh sau thập giá. Giờ đây, đứng trước một ngôi mộ trống an bình, trật tự, không thấy dấu vết của sự chết… người môn đệ Chúa yêu (và Phêrô nữa: xem c.9) mới nhớ lại và HIỂU lời Đức Giêsu nói “Người phải trỗi dậy từ cõi chết”.

Lời của Đức Giêsu báo trước về phục sinh, được ngôi mộ trống như là DẤU CHỈ nhắc nhở, đã được hiểu đúng mức; Đó là cội nguồn của đức tin phục sinh.

*Tin ngay cả khi Đức Giêsu chưa hiện ra cho thấy:

Tin mừng khẳng định: việc thấy, tiếp xúc thể lý với Đấng Phục Sinh qua giác quan là hoàn toàn không cần thiết để TIN Đức Giêsu đã phục sinh. Tác giả đã chia sẻ trải nghiệm ông có được ở đây điều mà ông sẽ tổng quát hóa cho mọi người trong trình thuật hiện ra cho Tôma “phúc cho ai không thấy mà tin”.

Đối với tín hữu mọi thời, dấu chỉ ngôi mộ trống được thay thế bằng cuộc sống, chứng từ đức tin của Giáo Hội, của bao chứng nhân đức tin. Các “cây Thập Giá tử đạo”, lẫn các “cây thập giá thờ lạy ý Chúa qua mọi chi tiết cuộc sống thường ngày” là những DẤU CHỈ, những NGÔI MỘ TRỐNG mà tín hữu xây lên dưới ánh sáng soi đường của Lời Chúa và Kinh Thánh.

*Kinh Thánh: Lòng mến thuần túy nhân loại như của Maria chưa thể đưa con người tới đức tin, vì lòng mến đó cũng bị giới hạn bởi thân phận con người. Cần phải nhờ tới ánh sáng của Kinh Thánh chiếu soi hướng dẫn thì lòng mến của con người mới có thể gặp được chân lý, mới nhận ra được ý nghĩa của sự kiện và tin. Giờ đây, nơi người môn đệ Chúa yêu: lòng mến, dấu chỉ Ngôi Mộ Trống và lời Kinh Thánh quyện lẫn vào nhau đưa ông tới đức tin, giúp ông vượt qua bóng đen của cái chết, nhận ra rằng Đức Giêsu ĐÃ PHỤC SINH, bước vào buổi “Tân Niên” của sáng tạo mới dù mắt phàm ông chưa được thấy Người hiện ra.

 Ngoài ra, một yếu tố không hiện rõ trong sứ điệp bản văn nhưng thiết nghĩ nó đã giúp người môn đệ Chúa yêu dễ dàng hiểu lời Kinh Thánh đúng theo ý Chúa khi được nhìn thấy ngôi mộ trống, nhờ đó ông đã tin, đó là Lòng mến: tình yêu chân chính của người môn đệ đối với Thầy mình.

4/ Sứ điệp

Dù là Chúa Nhật Phục Sinh ngay sau đêm canh thức, nhưng ta không hề thấy Đấng Phục Sinh xuất hiện trong Tin Mừng hôm nay; cũng không thấy nói tới trực tiếp việc Đấng Phục Sinh hiện ra cho những người được chọn từ trước. Tin Mừng chỉ thoáng đề cập đến Đấng Phục Sinh ngang qua một lời Kinh Thánh “Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết”.

Tin Mừng muốn nhấn mạnh đến LÒNG TIN:

–  Tin rằng Đức Giêsu đã thực sự phục sinh dù không gặp Người theo thể lý

– Và điều kiện cần có để tin

– Việc gặp gỡ thể lý, hay được Đấng Phục Sinh hiện ra cho thấy hoàn toàn không cần thiết để tin.

Yếu tố để tin chính là:

– Lòng mến của một người môn đệ.

– Một dấu chỉ: ở đây là Ngôi Mộ Trống.

– Và nhất là phải nhớ lại và hiểu lời Kinh Thánh.

Trình thuật này rõ ràng được soạn thảo cho những người không gặp được trực tiếp Đấng Phục Sinh. Tin mừng khẳng định rằng tín hữu mọi thời, mọi nơi vẫn có đủ phương tiện cần thiết để nhận ra được Đấng Phục Sinh đang sống và tin vào Người như người môn đệ Chúa yêu: dấu chỉ là chứng từ tông truyền thay cho Ngôi Mộ Trống, còn Lời Chúa thì luôn có đó. Phần còn lại là lòng mến của chúng ta.

Frère Pierre Đình Long FSC