Năm thánh Giuse (Tập 2)

Lời Ngỏ

Kính chào các bạn trong phúc lành của Thánh Giuse.

Tập sách Những Bài Suy Niệm Năm Đặc Biệt Về Thánh Giuse ra mắt cách đây đúng một tháng.

Cũng vì năm kính Thánh Cả, tôi cố gắng hoàn thành tập viết này với tựa đề “Để Hiểu và Yêu Mến Thánh Cả Giuse Hơn”

Tập sách được chia làm hai phần: Tìm hiểu và áp dụng. Nhiều tư liệu thần học, tu đức về Thánh Cả chính tôi trước đây cũng chưa để ý, chưa biết. Phần khá lớn tôi “tóm dịch” trong cuốn Saint Joseph của Mgr. Cristiani, Paris 1962; tham khảo một số tác giả khác, nhất là cuốn Thánh Giuse Trong Phúc Âm của Châu Thuỷ, New Orleans, USA 1989 và một số trang mạng.

Phần tìm hiểu rất phong phú với các trích dẫn, rất nhiều ích lợi cho các học viên. Qua kinh nghiệm làm giám học tại ĐCV Thánh Quí, Cần Thơ, tôi thấy: “các môn học phải dẫn đến tu đức” (học hiểu nhưng phải dẫn vào đời sống tu đức).

Phần áp dụng thì cần thiết cả cho giới trí thức (biết à sống), cả cho giới bình dân qua các hình thức thực hiện lòng sùng kính Thánh Giuse.

Nhiều người nghiên cứu, nhiều người học hiểu và nhất là mọi người đều “sống lòng sùng kính Thánh Cả”; với tôi, “đó là một phép lạ”.

Cùng hiểu thêm để yêu mến Thánh Cả hơn.

Chúc mọi người tìm thấy nơi “Nagiarét” của mình tình yêu và phúc lành của Thánh Cả trong Mùa Xuân sắp đến.

Đón Xuân Tân Sửu 2021
Lm. Gs. Trần Đình Thụy

Phần 1
TÌM HIỂU
Chủ Đề 1
THỜI CÁC GIÁO PHỤ VÀ GIAI ĐOẠN ĐẦU [1]

CÁI NHÌN CHUNG

Thật khó mà biết được chính xác lòng đạo đức trong các thế kỷ đầu của Kitô giáo dành cho thánh Cả Giuse. Tất cả các tư tưởng của các Kitô hữu đầu tiên thường hướng về chính Chúa Giêsu: đời sống, cái chết và sự sống lại; Chúa Thánh Thần hiện xuống trong chương trình cứu độ khi tin vào Chúa Giêsu Kitô. Đức trinh nữ Maria cũng vậy, trong thời gian dài đã không có một nghi lễ dành cho cá nhân hay tập thể. Có lẽ sự rao giảng Tin Mừng cổ nhất được nhận ra trong Tin mừng thánh Marcô qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan cho đến khi Chúa Giêsu lên trời. Những trình thuật trong phần đầu được khai mở liên quan đến thời thơ ấu của Chúa Giêsu đó là những chương đầu của Tin mừng thánh Matthêu và thánh Luca.

Chỉ đến thế hệ thứ hai, con cái của những tín hữu đầu tiên, mới thấy xuất hiện những điều liên quan đến việc sùng kính của các Kitô hữu nhưng vẫn chưa có một nghi thức chính thức nào.

Những lễ kính của Kitô giáo một thời gian rất lâu dành cho việc Chúa sống lại, Phục sinh và Chúa Thánh Thần hiện xuống đến lễ Ngũ Tuần. Những bài viết của các giáo phụ được gọi là “Tông truyền” bởi vì họ sống rất gần với các Tông đồ cũng chủ yếu minh giải đức tin về Chúa Ba Ngôi, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, qua những bài giảng và cắt nghĩa Phúc Âm. Nhưng tìm hiểu kỹ, chúng ta có thể trưng dẫn ra một số tư tưởng của các Giáo phụ nói về thánh Giuse.

GIÁO PHỤ HY LẠP

 I.THÁNH INHAXIÔ ANTIÔKIA (+107)

1.   Chương trình kỳ diệu của Chúa trong hôn nhân Giuse và Maria

Một trong những giáo phụ cổ thời là thánh Inhaxiô Antiokia tử đạo năm 107 ở Rôma. Chúng ta có 7 lá thư rất giá trị của ngài. Một trong  số đó được gửi cho tín hữu Êphêsô: “Từ nguyên thuỷ, thái tử của thế gian này (Satan) đã chẳng biết sự đồng trinh của Đức Maria và việc sinh con của người cũng như cái chết của Chúa chúng ta. Ba mầu nhiệm đặc biệt này được thực hiện trong sự thinh  lặng của Thiên Chúa”. Trong bối cảnh đó, thánh Giuse không được nêu tên nhưng đặc tính mang chiều kích quan phòng về vai trò của ngài cũng được lưu ý. Vì cuộc hôn phối của thánh Giuse và Đức Maria mà việc Chúa Giêsu Kitô sinh ra một cách đồng trinh ma quỷ không biết được. Thánh Giêrônimô thuộc thế kỷ IV giải nghĩa: Tại sao Chúa Giêsu không chỉ sinh ra bởi một trinh nữ mà bởi một người đã đính hôn? – Một cách đặc biệt, nhờ lịch sử của thánh Giuse mà lịch sử của Maria cũng được xác định; và cũng để Mẹ không bị ném đá như một người ngoại tình bởi người Do Thái.

2.   Trinh nữ “đã đính hôn” sinh con

Trong cuộc di cư chạy sang Ai Cập, Mẹ cũng đã có sự nâng đỡ bởi chính thánh Giuse. Thánh tử đạo Inhaxiô còn nêu thêm một lý do: Việc sinh sản Hài nhi được giấu kín đối với ma quỷ bởi vì Hài nhi không chỉ được mang thai bởi một trinh nữ mà bởi người trinh nữ đã đính hôn.

  II. THÁNH GIÚTINÔ (100 – 165)

1. Thời thơ ấu của Chúa Giêsu

Chúng ta biết rằng thánh Giútinô, người gốc Palestin, đã nói nhiều đến thánh Giuse trong khảo luận “Đối thoại với Tryphon” mà người ta cho rằng nó xuất hiện khoảng năm 155. Chính bởi thánh Giútinô mà chúng ta biết rằng Hài nhi Giêsu ở trong một cái hang (grotte), và cũng nhờ ngài mà người ta biết rằng thánh Giuse đã làm nghề thợ mộc.

2. Chúa Giêsu là hoa trái của Thánh Thần

Thánh Giútinô nhấn mạnh về điểm căn bản này: Chúa Giêsu là con thánh Giuse nhưng đó là điều sai lầm, Giêsu đích thực là con Thiên Chúa và “hoa trái bởi lòng Đức Maria chính là hoa trái của Chúa Thánh Thần”.

Điều rất quan trọng đối với những người “Ngộ đạo thuyết”, là những người tự xem mình là “thông hiểu”, đã làm lung lạc tín hữu khi họ cho rằng Giuse là cha đích thực của Đức Giêsu chứ không phải là cha nuôi hoặc cha theo pháp lý. Một cuộc chiến kịch liệt chống lại những người lạc giáo này đã xảy ra, đặc biệt hai tác giả nổi danh là thánh Irênê là vị giám mục thứ hai của Lyon – Pháp và Tertulianô bên Phi Châu.

III. THÁNH IRÊNÊ (130 – 203)

1.   Sự đồng trinh của Đức Maria – Thánh Giuse là cha nuôi

Tác phẩm chính của thánh Irênê (130 – 203?) với tên  “Adversus Haereseshay “Contre les Hésésis” (Chống Dị giáo) xuất hiện khoảng năm 185. Trong khảo luận Các Văn Bản Giáo Phụ được P. Bertrand soạn thảo kỹ lưỡng trong cuốn “Cahiers de Joséphisme”, ông đã trình bày 14 trích bản trong sách của thánh Irênê về vấn đề thánh Giuse.

Irênê chống lại những người lạc giáo chối bỏ sự đồng trinh của Đức Maria và xem Đức Giêsu là người con theo tự nhiên của thánh Giuse. Trong nhóm Ngộ Đạo Thuyết về vấn đế này, ngài nhắm đến Cérinthe và Carporate.

Để chống lại nhóm lạc giáo này, thánh Irênê đã dựa vào Tin mừng Matthêu và Luca. Niềm tin Kitô giáo dạy rằng: Maria trọn đời đồng trinh, Giuse không góp phần nào trong việc sinh hạ Chúa Giêsu, việc sản sinh đồng trinh này đã được tiên tri Isaia tiên báo về Chúa Giêsu và ngài tự nhận: ‘Đây còn có Đấng cao cả hơn Salomon… hơn Giona…’ (x.Mt 12,41-42); và Chúa Giêsu đã khen tặng Phêrô khi ngài tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x.Mt 16,16-17). Irênê cũng dựa vào thánh Phaolô khi gọi Chúa Giêsu là “Ađam mới” nghĩa là: Ngôi Lời nhập thể để phục hồi nhân tính đã bị sa đoạ nơi “Ađam đầu tiên”. Qua đó, ta thấy chân lý nền tảng: Ađam đầu tiên là một “khởi đầu” (commencement), còn Ađam mới là “tái khởi đầu” (recommencement). Từ này mang nghĩa bao hàm: lấy lại, phục hồi lại, đặt vào trong trật tự.

2.   Vai trò “được định trước” của Giuse

Irênê lại còn so sánh Eva cũ và Maria là Eva mới. Nhân loại đã phải chết bởi một người nữ; nhân loại được cứu độ cũng bởi một người nữ.

Irênê đã ca tụng thánh Giuse vì đã tin vào lời thiên sứ: “Đừng ngại nhận Maria về nhà mình, vì người con…” (Mt 1,20). Irênê đã hiểu sâu sắc vai trò mang tính quan phòng cần thiết của thánh Giuse. Thánh nhân là phát ngôn viên quan trọng trong truyền thống Kitô giáo về vấn đề này.

 IV. TERTULIANÔ (155 – 223)

Xác định thiên tính của Chúa Giêsu

và vai trò “được định trước” của Giuse

Chính trong tác phẩm De Carne Christi viết khoảng năm 212, Tertulianô nói về thánh Giuse. Cũng như thánh Irênê chống lại phe lạc giáo, điển hình là Cérinthe và Carporate, Tertulianô còn chống Apelle và Marcion.

Về Tertulianô, chúng ta chỉ cần ghi những dòng sau: “Thật chẳng thuyết phục khi nói con Thiên Chúa sinh bởi yếu tố con người; bởi vì nếu hoàn toàn là con người, Hài nhi đó không còn là Con Thiên Chúa; và nếu như vậy thì đâu có gì hơn Salomon và Giona”.

 V.  THÁNH EPHREM [2] (306-372)

1.   Con của Giuse đã sinh ra mà không bởi Giuse

Là miêu duệ dòng Đavít, Giuse đã kết hôn với một thiếu nữ cùng dòng tộc. Thiếu nữ ấy sinh ra cho ông một người con, mà không có sự tri giao vợ chồng. Đã hẳn, Đức Kitô mà sinh bởi một người phụ nữ ngoài hôn nhân lại là điều bất xứng.

Maria đã sinh hạ một con trai không được đăng ký với tên Bà, mà phải với tên của Giuse, mặc dầu Hài Nhi ấy không phải tự ông mà có. Con của Giuse đã sinh ra mà không bởi Giuse.

2.   Con Đấng Tối Cao cũng là con của Giuse

Giuse âu yếm ẵm bồng con Thiên Chúa, biểu hiện dưới hình dạng Hài Nhi với xiết bao cung kính, vì biết rõ Ngài là Thiên Chúa. Về hồng ân ấy, ông cảm tạ Thiên Chúa khôn cùng… Lúc nào ông cũng nửa mừng nửa sợ. Có lúc ông đã kêu lên: “Ai ngờ tôi được vinh dự lớn này là Con Đấng Tối Cao đã hóa thành con tôi!”.

3.   Giuse được phúc chung sống với Con Thiên Chúa

  • Ôi Giuse công chính! Ông có phúc vì Ngôi Lời làm người thơ ấu vừa tầm mức ông, đã lớn lên bên cạnh ông, dưới mái nhà ông, mà vẫn không rời xa cung lòng Thánh phụ.

Đấng vốn là Con của Chúa Cha đã được gọi là Con của Đavít, Con của Giuse. Ngài đã ưu ái nhận lấy những danh xưng phúc lộc ấy.

4.   Chỉ có Chúa Giêsu mới khen ngợi thánh Giuse cho xứng

  • Lạy Chúa Giêsu! Chớ gì mọi miệng lưỡi hãy ca tụng Mẹ Chúa Khôn cùng! Nguyện cho lòng Đấng đã cưu mang Chúa được tràn đầy phúc lộc!

Còn thánh Giuse, chẳng ai có thể ngợi khen ngài cho xứng, trừ Chúa là Con thật Chúa Cha vĩnh tồn, là Đấng đã khứng nhận ngài làm dưỡng phụ.

Suy tư cá nhân: Như vậy, Chúa Giêsu đã hết lòng thảo hiếu thánh Giuse. Chính trên lòng thảo hiếu của Chúa mà mọi sự sùng kính của ta đối với thánh Giuse cơ bản được chấp nhận.

 VI. THÁNH GIOAN KIM KHẨU BÀN VỀ VỤ TRỐN SANG AI CẬP

Thánh Gioan Kim Khẩu (340-407) quê ở thành Antiôkia, giám mục thành Constantinôpôli, được mệnh danh là Kim Khẩu, vì sự khôn ngoan và tài năng hùng biện của ngài.

Đức Piô X đã tôn ngài làm Tiến sĩ Giáo hội và bổn mạng các nhà giảng thuyết.

1.   Giuse vâng lệnh Chúa truyền

Thiên thần bảo ông Giuse rằng: “Hãy trỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Maria trốn qua Ai Cập” (x.Mt 2,13). Thiên thần cho biết lý do là: “Bởi Hêrôđê toan lùng Hài Nhi mà giết” (x.Mt 2,13).

Thiên Chúa pha trộn cay đắng với ngọt bùi. Đó là cách Chúa đối xử với các thánh.

Trước hết, thấy bà có thai, ông đâm nghi nan bối rối, nhưng rồi có Thiên thần hiện đến giải tỏa mối lo sợ nghi ngờ. Lúc Ấu Chúa sinh ra ông vui mừng lắm nhưng lại sợ hãi xiết bao khi thành đô náo động, và ác vương thịnh nộ lùng tiêu diệt Hài Nhi!

Tiếp theo biến động này là niềm vui ngôi sao xuất hiện đưa Đạo sĩ tới thăm. Nhưng xiết bao lo sợ, khi Thiên thần cho biết Hêrôđê toan hại tánh mạng Hài Nhi và truyền cho Giuse bôn ba sương gió, nhưng dường như Chúa chẳng có mặt ở đó vậy.

2.   Lời tiên tri ứng nghiệm

“Ta gọi Con Ta từ Ai Cập” (x.Mt 2,15).

Sự kiện “Xuất Ai Cập” cũng là một vinh dự lớn cho Trinh nữ Maria. Dân tộc Do Thái lấy đó là một đặc ân cho mình, thì Trinh nữ cũng có quyền như vậy. Người Do Thái tự hào nhớ lại mình đã ra khỏi Ai Cập, coi đó là một kỷ niệm vinh quang. Một tiên tri đã ám chỉ điều ấy khi ông kêu lên: “Há ta chẳng đem Israel ra khỏi Ai Cập ư?” (Am 9,7).

Cuộc xuất lưu và hồi hương của dân Do thái là hình bóng hai cuộc hành trình của Trinh nữ Maria. Dân Do thái sang Ai Cập là để thoát nạn chết đói. Đức Kitô sang Ai Cập là để tránh âm mưu đe dọa tính mạng Ngài.

Sang Ai Cập và từ Ai Cập trở về Nagiarét, thánh Giuse đóng vai trò quan trọng là người bào vệ Mẹ Maria và Hài Nhi. Đây cũng là chương trình của Chúa.

GIÁO PHỤ LATINH

 I. THÁNH GIÊRÔNIMÔ (340 – 420)

Thánh Giêrônimô là người đào sâu tư tưởng của các giáo phụ đi trước, nhưng ngài lại đặc biệt nghiêng về những kiến thức từ Thánh Kinh. Như chúng ta đã biết, ngài đã dịch toàn bộ Thánh Kinh qua tiếng Latinh với tên gọi là bản Vulgata (Bản Phổ thông), bản dịch được Giáo hội phê chuẩn và dùng trong Phụng vụ.

Thánh Giêrônimô cũng biết rất rõ về những Ngụy thư nói về thánh Giuse, nhưng ngài không mấy tin vào các tài liệu đó. Thánh nhân đặc biệt nói về sự trinh khiết của Đức Mẹ trong cuốn sách Aversus Helvidium xuất hiện khoảng năm 383 với tựa đề đầy đủ khác bằng tiếng Pháp là De la Perpétuelle Virginité De Marie Contre Helvidius (Về sự trinh khiết trọn đời của Đức Maria – phản bác lại Helvidius). Trong đó, ngài quả quyết và chỉ ra rằng: tà phái này không hiểu các bản văn Thánh Kinh. Ngài chống lại các Nguỵ thư và còn nói đến giá trị của sự trinh khiết trọn đời của thánh Giuse: “Tôi xác định rằng không chỉ Đức Maria mà còn cả thánh Giuse cũng giữ mình đồng trinh, để trong cuộc hôn phối trinh khiết đó, Đức Maria đồng trinh đã sinh con. Và nếu Đức Maria được coi như hôn thê của ngài, thì thánh Giuse đã trở thành người bảo vệ còn hơn cả hôn phu. Phải kết luận rằng ngài luôn trinh khiết cùng với Đức Maria, để ngài xứng đáng được gọi là ‘cha của con Chúa’, vì ngài là hôn phu của Đức Maria.” Với nghĩa đặc biệt này, thánh Giêrônimô hướng mở tới sự trinh khiết trọn đời của thánh Giuse. Thánh Giêrônimô cũng cắt nghĩa tư tưởng của thánh Inhaxiô Antiokia, mà qua đó, Đức Maria đã có một hôn phu hoàn toàn sống khiết tịnh.

Có thể nói, thánh Giêrônimô là một giáo phụ nổi tiếng bàn về đức đồng trinh của thánh Giuse một cách căn bản, giống như thánh Gioan Kim Khẩu ở Đông phương.

 II.  THÁNH AUGUSTINÔ (354-430)

1.   Đề cao đức tính của thánh Giuse

Giuse biết rõ mình không có dính dáng gì trong vụ bí mật của Maria, nên lẽ đương nhiên ông nghĩ: chả lẽ bà là thất tiết. Nhưng ông là người công bằng, chính trực, không muốn làm tổn thương danh dự của bà, nên đã quyết định âm thầm rút lui.

Ông đã bối rối, vì ông là hôn phu. Nhưng ông không ngược đãi, vì ông là người công chính. Cao cả thay sự công chính của Giuse! Ông tha thứ không phải để còn được chung sống với bà. Có nhiều ông chồng đã tha lỗi thất tiết cho vợ, là để giữ vợ lại mà thỏa mãn tình riêng. Còn Giuse tha thứ mà không có ý giữ bà lại. Như thế, mối tình của ông không vấn vương dục vọng. Ông không muốn nộp bà để bà bị luận tội, đó là do lòng nhân ái khoan dung.

Đáng phục thay đức tính của Giuse! Chính vì thế ông đã được chọn để làm chứng về đức đồng trinh của bà.

3.   Hôn nhân đích thực và kỳ diệu giữa Giuse và Maria

Giả sử có đôi vợ chồng nào đồng thỏa thuận kiêng giữ suốt đời, thì dây hôn nhân của họ cũng không bị tiêu hủy; trái lại, càng thêm bền vững khi hai bên đều nắm giữ những điều đã cùng nhau đoan hứa, không phải trong sự quan hệ thể xác, nhưng trong niềm tin tưởng tâm hồn.

Không phải vô cớ mà thiên thần bảo Giuse “đừng sợ rước Maria về làm hôn thê” (Mt 1,20). Trinh nữ được gọi là hôn thê bởi do có hôn ước, chứ thực ra hôn phu của bà không hề gần gũi bà khi nào.

Giuse là hôn phu của Trinh nữ cùng do bởi hôn ước mà thôi, chứ không hề có việc đi lại thường tình. Nhưng bởi là hôn phu, ông được làm cha Đức Giêsu, theo một nghĩa cao trọng hơn danh nghĩa dưỡng phụ.

III. THÁNH BÊNAĐÔ[3]

1.  Bàn Về Quyền Chức Thánh Giuse

Thánh Bênađô (1091 -1153) là giáo phụ cuối cùng, được mệnh danh là ca sĩ của Mẹ Maria. Thiết tưởng ta cũng có thể gọi ngài là ca sĩ của thánh Giuse nữa.

Bênađô đáng kể là tông đồ tiên phong về sự sùng kính thánh Giuse. Thế kỷ XII nhiều nhân vật có thế giá, nhất là Bênađô, với những bài giảng hùng hồn, đã đề cao vai trò của thánh Giuse trong thời thơ ấu Chúa Giêsu. Tán dương những vinh quang và nhân đức của ngài. Sự sùng kính thánh Giuse trong Giáo hội bắt đầu thăng tiến từ đó.

Thánh Bênađô chưa đạt tới mức độ giáo thuyết về thánh Giuse như ta ngày nay. Chức vị làm chồng, làm cha của thánh Giuse, đối với ông, xem ra có tính cách tạm thời và hữu danh hơn là hữu thực. nhưng điều đó không lạ gì, vì là buổi sơ khai.

2.  Giuse: Chồng Đức Maria, Cha Chúa Cứu Thế

“Maria đã đính hôn với một người tên là Giuse” (Lc 1,26). Luca nêu tên người đó, nhưng không gọi là chồng, dường như chỉ muốn nói đến một người nhân đức.

Còn Mathêu thì nói rõ người đó là chồng Đức Maria. Điều này hợp lý, vì phải xưng ông bằng tước hiệu thuộc về ông, phải gọi ông là chồng của Maria, bởi lẽ cần cho người ta tin như vậy.

Cũng một lẽ đó, Giuse đáng gọi là cha Chúa Cứu Thế, mặc dầu thực sự không phải vậy, hầu cho người ta tin ông là cha Ngài, như Phúc Âm đã chép: “Chúa Giêsu khởi đầu công vụ vào trạc ba mươi tuổi, và người ta tưởng Ngài là con của Giuse” (Lc 3,23).

Thực ra, ông không phải là chồng của Mẹ, cũng không phải là bố của Con. Nhưng là sự an bài cần thiết, ông được gọi là chồng, là cha trong một thời gian, và được người ta nhìn nhận như vậy.

Hẳn Giuse, hôn phu của Đức Maria, là một người lương hảo, trung thành, hay nói đúng hơn  là “một tôi tớ trung thành khôn ngoan” Chúa đã đặt bên cạnh Đức Maria để làm Đấng an ủi Mẹ, là cha nuôi nấng Con, và trung thành cộng tác vào công cuộc lớn lao của Chúa.

(Trích dịch bài giảng: “Maria và Giuse” phần 3.)

TÓM KẾT CÁC GIÁO PHỤ

Thánh Bênađô tóm kết các giáo phụ đầu tiên đã cung cấp cho chúng ta những truyền thống quý báu, những chỉ dẫn căn bản và nền tảng dẫn đến một suy tư về thánh Giuse mà chúng ta có thể triển khai:

  • Những lý do tiền định về cuộc hôn nhân giữa thánh Giuse và Đức Maria và tính Dưỡng phụ của ngài với Chúa Giêsu.

  • Đồng trinh trọn vẹn của Đức Maria và hoàn toàn không có yếu tố đàn ông trong việc thụ thai Đức Giêsu.

  • Giuse hoàn toàn tin vào truyền thống tiên tri và lời loan báo của Thiên sứ tỏ lộ cho ngài về ý muốn của Thiên Chúa.

  • Sự dấn thân của thánh Giuse trong kế hoạch mầu nhiệm của việc nhập thể và của ơn cứu độ.

Và sau này, thánh Tôma Aquinô nói thêm:

  • “Khi Thiên Chúa kêu gọi một tạo vật đóng vai trò đặc biệt, Ngài sắp xếp cho người ấy được những ân điển và ân sủng cần thiết để hoàn thành sứ vụ đó” (Somme théol. IIIa, Q27, art.4).

Chủ Đề 2
CÁC THÁNH[4]

Chúng ta sẽ lần lượt đọc được tư tưởng của các vị sau đây:

  • THÁNH VINH SƠN PHÊRIÔ

  • ĐẤNG ĐÁNG KÍNH GERSON

  • THÁNH NỮ TÊRÊXA AVILA

  • THÁNH PHANXICÔ SALÊ

  • THÁNH ANPHONGSÔ LIGUÔRI

      I.  THÁNH VINH SƠN PHÊRIÔ: BÀN VỀ VỤ THÁNH GIUSE NGHI NAN BỐI RỐI

Thánh Vinh Sơn Phêriô (1350-1419), quen được giáo hữu xưng tụng là ông Thánh hay làm phép lạ, vì Thiên Chúa đã ban vô vàn ơn phước nhãn tiền bởi lời ngài cầu bầu. Ngày nay, ngài vẫn còn hiển linh như vậy.

Còn ngài thì tự xưng mình là “Thiên thần sách Khải huyền”, vì ngài thường giảng về tận thế và chung thẩm cách hùng hồn mãnh liệt, lại có nhiều phép lạ đi kèm; nên lay động lòng người sâu sắc, kết quả là hàng trăm ngàn linh hồn cải quá tự tân, giữa một thế kỷ sa đọa, nhiễu nhương cả việc đời lẫn việc đạo.

Mặc dầu ngài chỉ nói về thánh Giuse khi giảng về thời thơ ấu của Chúa Cứu Thế, nhưng những tư tưởng ngài đưa ra thật là sâu sắc như ta thấy.

1.   Phải có thiên khải mới biết được các mầu nhiệm

Thánh Tôma dạy rằng: “Các mầu nhiệm chỉ có thể biết được khi thánh ý Ngài muốn tỏ ra”.

Những hiện tượng tự nhiên, ta có thể đoán trước được, khi ta biết nguyên nhân. Như thầy thuốc đoán được giờ chết của con bệnh, vì tương lai chưa thấy rõ, nhưng nhờ nguyên nhân ta có thể đoán ra.

Nhưng ý muốn và tự do của Thiên Chúa thì khác. Thánh Kinh chép: Thánh ý Chúa ai hiểu được, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, nếu Ngài không phái Thánh Linh từ trời xuống?

Giuse thấy rõ tình trạng của bà, nhưng không có phương tiện tự nhiên nào giúp ông tìm ra sự thực. Việc hoài thai Chúa Con không phải là một hậu quả tự nhiên do một nguyên nhân tự nhiên, bởi Thiên thần hay nhân loại. Vậy: chỉ do thiên khải mới biết được.

2.   Giuse được mạc khải

Khi Giuse đang suy nghĩ về dự định rút lui, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông trong giấc mộng và bảo:

“Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1,20-21).

Mọi sự xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa đã phán bởi vị tiên tri: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.’” (Mt 1,23).

(Trích dịch bài giảng: “Áp lễ Giáng Sinh” Phần 2)

 II. ĐẤNG ĐÁNG KÍNH GIOAN GERSON: TÁN TỤNG THÁNH GIUSE

Tiến sĩ Gioan Gerson (1362-1428) là một linh mục nhân đức, một nhà thần học lừng danh trong thế kỷ XV. Cùng với thánh Vinh Sơn Phêriô, ngài là linh hồn của Đại Công Đồng Constantia (1414), tại đó, ngài đã đọc bài thuyết trình lịch sử tán tụng Thánh Cả Giuse, và yêu cầu các nghị phụ lập lễ Thánh Giuse thành hôn cùng Đức Mẹ, hầu xin Thánh Cả đem lại hòa bình và hiệp nhất cho Giáo hội.

Chính ngài đã nói lên thế giá về lời cầu của Thánh Cả Giuse trước tòa Chúa bằng câu bất hủ: “Thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin” (Non impetrate, sed imperat).

Câu này thoạt nghe, xem như có phần quá đáng. Thực ra Gerson có ý đề cao thế lực lời cầu nguyện của thánh Giuse trước tòa Chúa Giêsu bằng một kiểu nói “cường điệu”, chứ thánh Giuse có bao giờ dám truyền lệnh cho Chúa.

Đức Piô XI, ngày 19-03-1938, đã không ngần ngại áp dụng vào thánh Giuse kiểu nói dành riêng cho Đức Mẹ “là Đấng toàn năng bởi lời cầu nguyện”. Ngài nói: “Vì thánh Giuse thực là gia trưởng, nên sự can thiệp của ngài không thể không toàn năng”.

1.   Nhân đức thánh Giuse so với nhân đức của Mẹ Maria

Điều thích đáng là Trinh nữ Maria rạng ngời trong trắng thể nào thì cũng phải có một người chồng gần trong trắng như vậy, để kết duyên với Đức Nữ đồng trinh, mà trước sau ông vẫn giữ mình thanh tịnh.

Cả hai đấng đều sang trọng bởi dòng vương đế. Cả hai đấng đều nên thánh từ trong lòng mẹ. Maria đã khấn đức đồng trinh, Giuse cũng giữ mình thanh tịnh.

Mầu nhiệm Nhập thể giữ kín từ bao nhiêu thế kỷ, bà Maria đã được thông báo nhờ sứ điệp của Thiên thần. Ông Giuse cũng được Thiên thần thông báo trong giấc chiêm bao.

Nghe lời thiên sứ chào, Maria bối rối, nhưng không nghi nan. Giuse cũng bối rối trước một phép lạ phi thường đến nỗi toan bỏ mà đi, nhưng không nghi hoặc. Bởi thế, Thiên thần bảo ông đừng sợ rước Maria, chứ không bảo ông đừng hoài nghi nữa.

2.   Công lao của Giuse

Ông bà vâng chiếu chỉ Hoàng đế Augustô. Thánh Kinh chép rằng: Giuse đi Bêlem cùng với Maria sắp đến ngày sinh (x.Lc 2,4tt).

Ông Giuse thi hành lệnh thần truyền đem Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập. Bà Maria dầu mới sinh con còn non nớt, cũng một dạ phục tùng, lên đường giữa đêm khuya. Trong cuộc hành trình vất vả, ông bà có thể thưa với Chúa: “Luật Chúa là bài ca hát lên nơi khách địa” (x.Mt 2,13-15).

3.   Sự cao cả của thánh Giuse

(…) Nếu bà Isave được Mẹ Maria chào hỏi có một lần mà được ơn nói tiên tri, và Gioan con bà nhảy mừng trong dạ, thì Thánh Cả Giuse thường xuyên chung sống và chuyện vãn với Đức Mẹ, biết ông được an ủi, soi sáng đến chừng nào?

Ai sẽ cho tôi nghe giọng du dương của Trinh Nữ hát thánh ca nơi lưu địa? Ai sẽ cho tôi ngắm bà bồng trên tay Đấng đẹp nhất loài người, hôn kính khi con cười, thảm não khi con khóc, rồi trao cho Giuse bồng bế vuốt ve?

Nếu sự vâng phục ấy nói lên đức khiêm nhường thẳm sâu nơi Ấu Chúa thì cũng đem lại cho cha mẹ Ngài một phẩm cách vô song!

Cha lập luận rằng: Thánh Giuse là gia trưởng ở Nazareth, và được Đức Maria và Chúa Giêsu suy phục. Uy tín này vẫn còn được duy trì ở trên trời. Cha Gerson, một nhà thần học bênh vực tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, cũng muốn cho Thánh Giuse được thánh hoá từ lòng mẹ giống như Thánh Gioan Tiền hô. Đường hướng thần học của cha là học hỏi Thánh Giuse dựa theo thần học về Đức Maria, xét về các nhân đức và đặc ân. Một hình ảnh khác cũng được phổ biến nhờ Cha Gerson là “tam vị ở dưới trần” (Chúa Giêsu, Đức Mẹ, Thánh Giuse) được trình bày như phản ánh mầu nhiệm “tam vị ở trên trời”.

(Trích dịch bài thuyết trình: “Tán tụng Đức Mẹ và thánh Giuse” do tiến sĩ Gioan Gerson đọc tại Đại Công Đồng Constantia ngày 08-09-1416)

III. THÁNH NỮ TÊRÊXA AVILA: TÔNG ĐỒ THÁNH CẢ GIUSE

Thánh nữ Têrêxa Giêsu (1515-1582) sinh tại làng Avila nước Tây Ban Nha.

Thắng vượt nhiều gian lao thử thách, bà đã cải tổ dòng nữ Cát Minh, đưa trở lại luật phép nhiệm nhặt nguyên thủy. Lập được 17 nữ tu viện, bà đã dâng kính thánh Giuse 13 nhà. Bà cũng giúp đỡ thánh Gioan Thánh Giá lập 13 dòng nam nhặt phép.

Bà đạt đến bậc chiêm niệm cao sâu và nổi tiếng về những thị kiến và xuất thần. Tác phẩm của bà khá nhiều, có giá trị văn chương và nhất là giá trị tu đức, thần bí. Vì thế, năm 1970 bà được phong làm Tiến sĩ Giáo hội, cùng với thánh nữ Catarina, là hai Nữ Thánh Sư đầu tiên của Giáo hội.

Bà đáng được kể vào hàng đệ nhất tông đồ của Thánh Cả Giuse, không phải bằng lời giảng, mà bằng kinh nghiệm và hành động. Trong các sách của bà, bà đều nói nhiều đến ơn lạ Thánh Cả đã xin cùng Chúa cho bà và cho tu hội.

Vì thế, sự sùng ái Thánh Cả Giuse vinh hiển là một gia bảo lưu truyền cho các nhà dòng Cát Minh cho tới ngày nay.

1.   Khỏi chứng bất toại

Năm hai mươi tuổi, nữ tu Têrêxa bị bệnh bất toại đã lâu ngày không khỏi, liền lấy lòng trông cậy chạy đến cùng thánh Giuse vinh hiển. Bà thuật lại như sau:

“Thấy mình còn trẻ mà bị bất toại, các thầy thuốc trần gian đưa tôi đến một tình trạng đáng buồn, tôi quyết định kêu đến các thánh trên trời. Tôi xin thánh Giuse vinh hiển làm trạng sư bảo hộ, và ngài đã cứu tôi nhãn tiền.

Cha đáng mến của linh hồn tôi kíp chữa tôi khỏi mọi đau đớn bệnh tật phần xác, cũng như sau này ngài cứu tôi khỏi những nguy hiểm trầm trọng phần hồn, có thể khiến tôi hư mất.

Tôi nhớ không có bao giờ ngài từ chối tôi điều gì, trái lại ngài luôn luôn ban quá sự tôi ao ước. Nơi tôi, Ngài đã làm chói rạng quyền thế và từ tâm của ngài.

Nhờ ngài tôi được hồi phục, tôi đứng lên, tôi đi lại và tôi khỏi hẳn bệnh tê liệt.”

2.   Tông đồ Thánh Cả

Vì lòng cảm mến tri ân, bà trở thành tông đồ truyền bá sự tôn sùng Thánh Cả, bà viết:

“Thật là kỳ diệu các ơn phước đủ loại Chúa đã ban dư dật cho tôi, cũng như các nguy hiểm hồn xác Chúa đã giải cứu tôi, bởi công nghiệp của thánh Quan Thầy đáng mến! Dường như Chúa ban cho mỗi Đấng thánh được ơn cứu giúp ta trong một loại vấn đề nào đó. Trái lại, thánh Giuse có thế lực giúp ta trong tất cả mọi trường hợp, kinh nghiệm đã chứng minh như vậy.

Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, muốn dùng sự kiện ấy để ta biết rằng: như xưa dưới thế Ngài đã vâng phục thánh Giuse trong mọi sự thế nào, thì nay trên trời, Chúa cũng hạ cố chiều theo mọi ước muốn của thánh nhân như vậy.

Nhiều người, tôi khuyên chạy đến cùng thánh nhân cũng nhận thấy như thế. Các ơn phước lớn lao họ nhận được đã khiến họ thấm nhuần lòng hiếu thảo thâm trầm và tri ân sâu sắc đối với thánh Quan Thầy.”

3.   Chết rồi còn tôn vinh Thánh Cả

Bà dâng kính Ngài 13 tu viện trong số các tu viện mà bà thiết lập, đặt tượng ngài trên cổng chính nhà dòng, mỗi tối đem chìa khóa đặt dưới chân tượng, có ý xin ngài canh giữ tu viện và chị em trong nhà.

Sau khi bà qua đời, chị em muốn lấy tên Mẹ sáng lập mà đặt cho nhiều tu viện. Mẹ liền hiện về với Mẹ Đôminica, bề trên nhà Avila mà truyền rằng: “Con hãy trình Bề trên Tỉnh dòng gỡ ngay tên mẹ đi, mà trả cho Thánh Cả các tu viện mẹ đã dâng kính ngài”.

Như vậy, sau khi qua đời, bà còn nhiệt thành làm vinh danh Thánh Cả, mà khi sinh tiền bà đã hết dạ kính yêu.

4.   Lời thách đố đáng yêu

Ngày lễ Mông Triệu 1561, trong nhà thờ dòng Đaminh tại Avila, bà bỗng xuất thần và nhận thấy mình mặc một áo trắng tinh ngời sáng. Lại thấy Đức Mẹ đứng bên phải, thánh Giuse đứng bên trái, hai đấng bảo cho biết bà đã được tinh sạch mọi tội lỗi.

Rồi Đức Mẹ cầm lấy tay bà mà nói: “Con ơi, Mẹ rất vui mừng về lòng sùng kính của con đối với thánh Giuse vinh hiển. Điều gì con nhờ ngài xin với Mẹ, sẽ được ban cho hết”.

Ai không tìm được thầy dạy dỗ đường nguyện ngắm, xin hãy chọn ông thánh kỳ diệu này làm thầy hướng dẫn, chắc chắn sẽ không sợ bị lạc đâu!

(Trích trong “Tiểu sử lập dòng” và “Tự truyện” của thánh nữ)

IV.THÁNH PHANXICÔ SALÊ:  BÀN VỀ ĐỨC VÂNG LỜI CỦA THÁNH GIUSE

Thánh Phanxicô Salê (1567-1626) làm giám mục thành Genève và sáng lập Dòng nữ Thăm viếng.

Ngài là tác giả cuốn “Dẫn đường mộ đạo” và cuốn “Luận về tình mến Chúa”. Ngài cũng để lại nhiều bài giảng về thánh Giuse, mà ngài rất sùng kính theo gương bà thánh Têrêxa Avila.

Giọng điệu tâm thành, lời văn uyển chuyển của ngài khiến người nghe, người đọc dễ động lòng cảm mến, nên người ta tặng ngài tước hiệu “Tiến sĩ mật ong”.

1.   Thánh Gia gặp nhiều gian khổ

Thánh Gioan Kim Khẩu nói với chúng ta:

“Hỡi bạn, bạn bực mình khi mọi chuyện không xảy ra như ý muốn, sao bạn không biết hổ ngươi, khi thấy sự đó cũng chẳng có được ngay cả nơi gia đình của Chúa?”

Đức Mẹ vừa được truyền tin sẽ cưu mang bởi Chúa Thánh Thần và sinh ra Chúa Cứu Thế, biết vui mừng hoan hỷ dường nào! Nhưng Giuse thấy sự tình mà chẳng biết tự đâu thì ông buồn bã khổ cực biết bao!

Chưa hết đâu. Cách ít lâu, thiên thần lại hiện ra với Giuse trong giấc mộng và bảo: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Ngài trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt 2,13). Ôi! Đó là một vấn đề đau khổ cho Đức Mẹ và thánh Giuse.

Đứng vào địa vị thánh Giuse, chắc ta còn có nhiều điều hơn nữa để chất vấn thiên thần, vậy mà ông không nói lấy nửa lời để tự bào chữa cho khỏi vâng mệnh.

2.   Trật tự trong Thánh Gia

Hãy suy ngắm trật tự lạ lùng trong Thánh gia. Người ta nói: loài chim ưng, con mái mạnh hơn con trống. Không ai hồ nghi rằng: Đức Mẹ trổi vượt hơn, khôn ngoan tài cán hơn ông thánh Giuse. Vậy mà thiên thần không tiếp xúc với bà trong vụ Ai Cập, khi đi cũng như khi về!

Phêrô là người già nua thô thiển, còn Gioan thì lịch sự trẻ trung, vậy mà Chúa muốn Phêrô làm thủ lãnh hướng dẫn mọi người, còn Gioan thì làm thuộc hạ của ông.

“Vậy ta hãy lấy làm đủ khi biết Chúa muốn ta vâng lời, mà không cần xét nét tài cán bề trên. Nhưng hãy bắt trí khôn đi vào con đường khiêm nhượng, đầy phúc lộc, thánh thiện và bình an, con đường khiêm nhường làm cho ta được đẹp lòng Chúa vô hạn”.

(Trích dịch bài huấn đức “Trốn qua Ai Cập” phần 3 cho nữ tu dòng Thăm Viếng)

 V. THÁNH ANPHONGSÔ LIGUÔRI:  BÀN VỀ QUYỀN CHỨC THÁNH GIUSE

Thánh Anphongsô Liguôri (1696-1778) làm giám mục thành Napoli, sáng lập dòng Chúa Cứu Thế, tác giả nhiều sách thần học và tu đức, tông đồ nhiệt thành của Đức Mẹ, và cũng là tông đồ của thánh Giuse, theo gương bà thánh Têrêxa Avila.

1.   Chức vị làm cha của Chúa Cứu Thế

Phúc Âm không ngần ngại tặng ông tước hiệu đó. Thánh Luca chép: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49).

Chính Đức Maria cũng nói với Chúa Con: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”(Lc 2,48). Vậy Thiên Chúa đã tôn phong ngài lên chức vị cao sang như thế thì ta cũng phải kính tôn ngài hết lòng.

Có thiên sứ nào, có thánh nhân nào đáng gọi là cha của Con Chúa không? Thiên Chúa suy tôn thánh Giuse hơn các thánh Tổ tông, các thánh Tiên tri, các thánh Hiển tu, vì các đấng ấy chỉ là tôi tớ của Chúa Giêsu; còn thánh Giuse là cha của Ngài cơ mà!

2.   Chức vụ gia trưởng Thánh gia

Trong nhà này, Giuse ngỏ ý và Con Thiên Chúa vâng nghe. Theo lời Tiến sĩ Gerson, sự tùng phục ấy chứng minh đức khiêm nhường của Chúa Cứu Thế, thì cũng tỏ cho thấy phẩm giá cao trọng của Giuse.

3.   Đấng cầu bầu mạnh thế

Thánh Bênađô nói: “Các thánh, mỗi đấng có thế lực về một số trường hợp, còn thánh Giuse thì có quyền cứu giúp trong tất cả mọi khó khăn, và bênh vực hết mọi kẻ thành tâm chạy đến cùng ngài”.

Bà thánh Têrêxa Avila, theo kinh nghiệm cũng khẳng định: “Dường như Chúa ban cho mỗi đấng thánh được ơn cứu giúp ta trong một loại vấn đề. Trái lại, thánh Giuse có thế lực giúp ta trong tất cả mọi trường hợp. Kinh nghiệm đã chứng minh như vậy.”

(Trích dịch bài giảng “Sùng kính thánh Giuse”)

Chủ Đề 3 

HUẤN QUYỀN CỔ VŨ LÒNG MẾN THÁNH GIUSE[5]

Các Thánh Giáo Phụ, các thánh, và các Đức Giáo Hoàng đã nhiều lần viện dẫn các chứng minh tại sao các Kitô hữu phải sùng kính Thánh Giuse, vì đời sống Thánh nhân không thể tách rời khỏi Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Ngài là một trong ba vị của gia đình Thánh Gia, Ngài cũng là gia trưởng của Thánh Gia.

Những văn kiện của Huấn quyền cận đại về thánh Giuse

1.   Thế kỷ 19
Đức Piô IX (1846-1878)

  • Sắc lệnh của bộ Nghi lễ Inclytus Patriarcha Joseph (10/9/1847), mở rộng ra toàn thể Giáo hội lễ kính Thánh Giuse bảo trợ, được cử hành vào thứ Tư tuần thứ ba sau lễ Phục sinh.

  • Sắc lệnh Quemadmodum Deus (8/12/1870) tuyên bố thánh Giuse bảo trợ Giáo hội, đáp lại lời thỉnh cầu của công đồng Vatican I

2.   Thế kỷ 20
Đức Lêô XIII (1878-1903)

  • Quan trọng nhất là Thông điệp Quamquam pluries (15/8/1889). Trình bày những lý do vì sao Giáo hội nhận thánh Giuse làm bảo trợ. Lý do thứ nhất bởi vì Thánh nhân được chia sẻ vào những ân huệ và phẩm giá của Đức Maria, nhờ mối dây hôn nhân. Lý do thứ hai là bởi vì mối tương quan hiền phụ với Chúa Giêsu. Lý do thứ ba là những đức tính của thánh Giuse trong việc chu toàn trách nhiệm với Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Tất cả mọi tầng lớp xã hội đều có thể chạy đến với thánh Giuse.

  • Tông thư Neminem fugit (14/6/1892) thiết lập Hiệp hội các gia đình được dâng hiến cho Thánh Gia.

Đức Piô X (1901-1914)

  • Lòng tôn kính thánh Giuse của vị Giáo hoàng này phần nào bắt nguồn từ tên riêng của mình (Giuseppe Sarto). Ngài phê chuẩn kinh cầu Thánh Giuse (18/3/1909).

Đức Bênêđictô XV (1914-1922)

  • Phê chuẩn kinh Tiền tụng Thánh Giuse trong Sách Lễ Rôma (9/4/1919)

  • Tự sắc Bonum sane (25/7/1920), nhân dịp kỷ niệm 50 năm Thánh Giuse được tôn phong Bảo trợ Giáo hội. Nhắc lại tầm quan trọng của việc cầu khẩn Thánh Giuse để đáp lại những nhu cầu của thế giới sau thế chiến thứ nhất. Ngoài mẫu gương nhân đức cho giới lao động, Thánh Giuse còn được giới thiệu như là Đấng bảo trợ những người sắp qua đời.

Đức Piô XI (1922-1939)

  • Huấn dụ ngày 19/3/1935, nêu bật mối liên hệ của thánh Giuse với sự hiệp nhất ngôi vị (unio hyposthatica) của Ngôi Lời nhập thể.

  • Thông điệp Ad sacerdotii catholici (20/12/1935) nói đến Chúa Giêsu đã được đào tạo ở Nagiarét bởi Đức Maria và thánh Giuse, cả hai người đều trinh khiết.

  • Thông điệp Divini Redemptoris (19/3/1937) trình bày thánh Giuse như khuôn mẫu cho giới lao động.

Đức Piô XII (1939-1958)

  • Thiết lập lễ Thánh Giuse lao động, và phê chuẩn những bản văn phụng vụ dùng vào dịp lễ (ngày 1/5/1955). Lễ này thay thế lễ Thánh Giuse bảo trợ Giáo hội.

Đức Gioan XXIII (1958-1963)

  • Hơn một lần, ngài đã nhắc nhớ rằng: Giuse là tên thứ hai của mình (Angelo Giuseppe Roncalli).

  • Tông thư Le voci triệu tập Công đồng Vatican II (19/3/1961) đặt Công đồng dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse. Nhắc lại giáo huấn của các vị tiền nhiệm về vai trò của Thánh Giuse đối với Giáo hội.

  • Sắc lệnh Bộ Nghi lễ (13/11/1962), ghi tên Thánh Giuse vào Lễ quy Rôma.

Đức Phaolô VI (1963-1978)

  • Nhiều lần nói đến Thánh Giuse trong các bài giảng hay huấn từ nhân lễ kính thánh nhân ngày 19/3 và 1/5. Nổi tiếng nhất là bài suy niệm tại Nagiarét (5/1/1964) nhân dịp hành hương kính viếng Thánh địa (được trích dẫn trong bài đọc Giờ Kinh Sách lễ Thánh gia).

3.   Thế kỷ 21
Đức Gioan Phaolô II (1978-2005)

  • Nhiều lần đề cập đến thánh Giuse trong các bài giảng nhân dịp lễ vào ngày 19 tháng 3, nêu bật vai trò của ngài trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa (1982) và trong Giáo hội (1993; 2001; 26/3/2003), cũng như những nhân đức nổi vượt, tựa như tín thác (1980), tin và cầu nguyện (1983). Thánh Giuse cũng trở nên mẫu gương cho đời sống gia đình (1981; 1987; 1993; 1999).

  • Thánh Giuse được nhắc đến trong nhiều văn kiện: Thông điệp Redemptor hominis (4/3/1979) số 9; Thông điệp Laborem exercens (14/9/1981) số 26; Tông huấn Familiaris consortio (22/11/1981) số 86; Thông điệp Dominum et vivificantem (18/5/1986) số 18 và 49; Thông điệp Redemptoris mater (25/3/1987) khi ôn lại các biến cố thời thơ ấu của Chúa Giêsu; Tông huấn Christifideles laici (30/12/1988); Tông huấn Vita consecrata (25/3/1996) số 28.

  • Văn kiện quan trọng nhất là Tông huấn Redemptoris Custos.

Đức Bênêđictô XVI (2005-2013)

  • Tên riêng là Joseph Ratzinger. Ngài đã dành một suy niệm ngắn về thánh Giuse trong Huấn từ chúa nhật thứ IV mùa Vọng năm 2005 (19/12) về sự thinh lặng, và nhân ngày lễ kính thánh Giuse 19/3/2006.

Đức Phanxicô

  • (Với biểu tượng cây cam tùng tượng trưng thánh Giuse khắc trên huy hiệu). Khai mạc chức vụ giám mục Rôma vào lễ Thánh Giuse với bài giảng nhấn mạnh đến vai trò chăm sóc (Chúa Giêsu, Mẹ Maria, mọi người đặc biệt là người nghèo, vũ trụ). Tông thư Patris Corde (ngày 8/12/2020) kỷ niệm 150 năm thánh Giuse được tôn phong làm bổn mạng toàn thể Giáo hội.

(http://daminhvn.net , Phan Tấn Thành, Những Văn Kiện Của Huấn Quyền Cận Đại Về Thánh Giuse)


Chủ Đề 4
SUY TƯ THẦN HỌC

I. SỰ CHUẨN BỊ CHO LỜI CHÚA

Đức Giám mục Christiani trong tác phẩm trứ danh của ngài “Saint Joseph” (Paris, 1962) được Imprimatur bởi Đức Giám mục J. Hottot ký ngày 15-05-1962, đã suy luận rất thuyết phục khi xem cảnh sống tại Nazarét là thời gian chuẩn bị cho Tin Mừng.

Khi nghĩ đến điều xảy ra trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, chúng ta được kêu mời tìm hiểu cuộc sống đã được chuẩn bị lâu dài vào thời ẩn dật, với cuộc sống của người thợ mộc. Có thể nói: Phúc Âm và những khuôn mẫu vàng được giới thiệu cho chúng ta khởi nguồn từ “bầu khí thiêng liêng” bao trùm tại Nazarét trong “ngôi nhà nuôi sống”, nơi mà Chúa Giêsu đã lớn lên. Qua đó, chúng ta biết rằng, Ngài không chỉ lớn lên như những đứa trẻ khác, mà Ngài còn “nên khôn ngoan, đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người”. Chúng ta cũng đã biết, cụm từ “lớn lên trong khôn ngoan” mang ý nghĩa Thánh Kinh, với một nghĩa đặc biệt. Cụm từ đó nói lên sự phát triển trong hiểu biết về Thiên Chúa và con người. Chính tại Nazarét mà Phúc Âm đã được ươm mầm. Vì vậy, chúng ta không ngần ngại khi gọi đời sống tại Nazarét là giai đoạn Tiền Phúc Âm (Pré- Évangile). Tất cả những điều Chúa Giêsu sẽ nói cho con người đã được suy nghĩ, chiêm ngắm trong môi trường của Thánh Giuse và Đức Maria. Ngài được gieo trồng những hạt mầm trong nơi mà chúng ta đã gọi là “bầu khí thiêng liêng”. “Bầu khí” này chính là bầu khí tại mái ấm Nazarét. Nếu Chúa Giêsu được coi là “vâng phục” cha mẹ mình là thánh Giuse và Đức Maria, chính là vì các vị đã cùng kết hợp với chính Ngài trong ánh sáng của Phúc Âm, trong nét đẹp của sứ điệp trước khi công bố cho nhân loại.

Quả đúng như vậy, nhất là những giáo huấn đầu tiên của Chúa Giêsu Kitô qua Bài Giảng Trên Núi (Sermon sur la Montagne).

Khi nghe Đức Giêsu tuyên bố những điều được coi như Bát Phúc (Béatitudes), chúng ta liên tưởng ngay là Đức Giêsu diễn tả điều mà Ngài đã sống trong suốt 30 năm gần Đức Maria và thánh Giuse.

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ.”
(Mt 5,3-12)

Vậy ai là những người có tinh thần nghèo khó, hiền lành, khát khao nên người công chính, xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hoà bình, bị bách hại vì sống công chính, nếu không phải là thánh Giuse và Mẹ Maria. Hai vị đã được thưởng công cho tâm hồn thanh sạch là họ đã được nhìn thấy Thiên Chúa trong suốt thời gian Đức Giêsu ở với họ. Bát Phúc của Chúa Giêsu không nghi ngờ gì:  đó là một phần linh đạo của thánh Giuse. Chính vì sống gần kề với thánh Giuse và Đức Mẹ, mà Chúa Giêsu cũng đã suy nghĩ trước những lời sau:

“Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc…

“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy…”

“Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài, còn tất cả những thứ kia, Ngài sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,25-34).

Cảm nghiệm trong đời sống tại Nazarét một “Khuôn vàng thước ngọc”: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

Cũng tại đời sống bình dân tại Nazarét với họ hàng lối xóm, với những người bình thường có tốt có xấu, Chúa Giêsu cũng nói đến những nét tiêu cực của người dân, đặc biệt là giới Pharisêu: cốt để tìm tiếng khen.

Chúa Giêsu cũng nhìn thấy trong đời sống ẩn dật của ngài về sự công chính – Giuse là người công chính. Theo Phúc Âm, ngài là người công chính vì đón nhận Maria về nhà và nhận bà là hôn thê. Sự công chính của ngài đã không ngừng phát triển từ lúc đó. Nó hoàn toàn khác với sự công chính bề ngoài của Pharisêu:

“Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,2-4).

Sau việc bố thí, Ngài lại nói đến sự cầu nguyện:

“Và khi cầu nguyện , anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,5-6).

Và Ngài còn nói thêm:

“Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhậm lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt 6,7-8).

Ngài cũng nói về sự ăn chay:

“Rồi khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,16-18).

Thật đúng với tinh thần Chúa Giêsu đã sống tại Nazarét, ta có thể nói rằng Chúa Giêsu đã hoàn tất những gì Ngài bắt đầu, những điều mà Ngài đã dạy: “…tất cả những việc Đức Giê-su làm và những điều Ngài dạy…” (x.Cv 1,1).

Giuse và Maria đã biết từ ngày đầu tiên, biết về sự cao trọng mang tính tiên tri của Giêsu – Con các ngài – qua xác nhận của thiên thần và của ông già Simêon và bà “tiên tri” Anna. Bí ẩn đã kéo dài suốt 30 năm hoặc với thánh Giuse khi còn sống. Không có lời cầu nguyện, sự bố thí, ăn chay nào tốt hơn là cách mà Maria và Giuse đã sống. Hơn nữa, Gioan Tẩy Giả đã đóng vai trò của mình, vì qua Dacaria là cha ngài, ngài đã nói lớn tiếng, trước cả sự hiện diện của Mẹ Maria: “…Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Ngài…” (Lc 1,76). Chính trong đức tin, niềm hy vọng và tình yêu, họ đã chờ đợi điều mà Chúa Giêsu sẽ nói: “Giờ của Ngài” chính là giờ của Thiên Chúa. Thời giờ này đã được xướng lên trước cái chết của Tổ phụ Giuse: “Thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em…” (x. St 50,25).

Dù là suy luận (argument), nhưng chúng ta cũng thấy nét tương đồng giữa lời của Chúa Giêsu và đời sống của Thánh Cả. Khẳng định đời sống tại Nazarét là thời gian Tiền-Phúc âm (un Pré-Evangile) cũng không sai gì.

II. NGÔN NGỮ THÁNH GIUSE

Trong tập Kỷ yếu 45 năm Ký Ức & Ước Mơ (Vũng Tàu – tháng 06 năm 2012), tôi đã viết và chia sẻ về ngôn ngữ của thánh Giuse là: Thinh lặng để Cầu nguyện – Yêu thương và Phục vụ. Chính 4 đặc tính này gói trọn cuộc đời thánh Giuse trước ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Tôi cũng kết luận trong bài viết và chia sẻ đó: “Chỉ xin gởi lại một chữ tình vì đó là ‘cả một tấm lòng’. Đối với tôi, những chia sẻ này có thể được mô thức hóa (formulé) là: Kinh Tin Kính của đời tôi”[6].

Năm nay (2020-2021), năm đặc biệt kính thánh Giuse, tôi xin đóng góp một chút suy tư cá nhân với những trải nghiệm cuộc sống: Ngôn ngữ thánh Giuse: Thinh lặng để cầu nguyện kết hợp – lắng nghe và thực hành ý Chúa.

1.   Hai bản văn nền tảng để suy tư

  • Huấn từ của ĐGH Phaolô VI tại Nazarét (05-01-1964)[7]:

“Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước chi nơi mỗi chúng ta lại nảy sinh lòng quý trọng sự thinh lặng. Đây là điều kiện tuyệt vời và cần thiết cho tinh thần, đang khi chúng ta bị quấy nhiễu vì bao tiếng la hét, ồn ào và náo động của cuộc sống hiện đại, luôn ầm ĩ và quá căng thẳng. Ôi, ước chi sự thinh lặng của Nazarét dạy chúng ta biết suy đi gẫm lại, biết trở về nội tâm, sẵn sàng đón nhận những hướng dẫn âm thầm của Thiên Chúa và lắng nghe những vị thầy chân chính dạy bảo. Ước chi sự thinh lặng đó dạy chúng ta biết sự cần thiết và giá trị của việc chuẩn bị, nghiên cứu, suy niệm, của nếp sống cá nhân và nội tâm, của lời cầu nguyện mà chỉ một mình Thiên Chúa nghe thấy trong nơi bí ẩn.”

  • Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục[8]:

“Theo mẫu gương thánh Giu-se, sự thinh lặng của linh mục ‘không biểu lộ sự trống rỗng nội tâm, nhưng trái lại, là một đức tin tròn đầy ngài mang trong tâm hồn, hướng dẫn mọi tư tưởng và hành động’[9]. Một sự thinh lặng, như của các tổ phụ xưa, ‘gìn giữ Lời Chúa được biết qua Thánh Kinh, hằng đối chiếu Lời ấy với các sự kiện trong đời Chúa Giê-su; một sự thinh lặng đan xen với lời cầu nguyện liên lỉ, lời kinh chúc tụng của Chúa, tôn thờ thánh ý Ngài, và hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa’[10].

Trong sự hiệp thông của Thánh Gia Na-da-rét, sự thinh lặng của thánh Giu-se hoàn toàn hoà hợp với sự hồi tâm của Đức Maria, ‘hiện thân hoàn hảo nhất’ củà sự vâng phục đức tin[11], Ngài đã ‘giữ kỹ tất cả những kỳ công cùa Đấng Toàn Năng và suy gẫm trong lòng’”[12].

2.   Suy niệm về ngôn ngữ thánh Giuse[13]

a.      Thinh lặng

Đời sống đức tin của Kitô hữu, và nhất là các linh mục và tu sĩ, sự thinh lặng phải là như “thời khắc ngưng nghỉ hoạt động bình thường” rất cần thiết.

Thinh lặng có thể được coi là “bầu khí thiêng liêng” bao phủ gần hết cuộc sống của thánh Giuse. “Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước chi mỗi người chúng ta lại nảy sinh lòng quý trọng sự thinh lặng” (Huấn từ của ĐGH Phaolô VI). Kim Chỉ Nam Linh Mục cũng nói: Theo mẫu gương thánh Giu-se, sự thinh lặng của linh mục không biểu lộ sự trống rỗng nội tâm’” (Số 51).

Nói về sự thinh lặng, chúng ta có thể ghi lại nhiều tư tưởng của các văn gia nổi tiếng:

“Tiếng ồn làm phân tán, tản mác, lãng phí. Sự im lặng tiếp nhận, thâu hồi và cô đọng. Ai không biết dành một khoảnh khắc trong đời cho những khu vực yên tĩnh, thì tâm hồn kẻ đó sẽ dần dần sống một cách hời hợt, nông cạn” (G. Courtois).

“Thinh lặng là người bạn thân không bao giờ phản lại ta” (Tục ngữ Trung Hoa).

“Những người nào không biết nghe sự thinh lặng thì họ sẽ không thể biết họ đã mất mát đến chừng nào” (M. Zuldel).

b.      Trong thinh lặng, ta cầu nguyện và kết hợp

Cũng trong Huấn từ, chúng ta nhận ra tâm tình của ĐGH Phaolô VI: “Ôi, ước chi sự thinh lặng của Nazarét dạy chúng ta biết suy đời gẫm lại, biết trở về nội tâm, sẵn sàng đón nhận những hướng dẫn âm thầm của Thiên Chúa”.

Kim Chỉ Nam cũng ghi rõ: Theo mẫu gương thánh Giu-se, … một sự thinh lặng đan xen với lời cầu nguyện liên lỉ, lời kinh chúc tụng của Chúa.

Thinh lặng để kết hợp. Tôi xin trích lại trong tập viết “Tìm Nơi Thinh Lặng” (Paris, 1999, trang 20-24):

“Ngày 11.8.1999, một ngày đặc biệt của năm cuối cùng của Thiên niên kỷ thứ hai: Nhật Thực. Tại Pháp, theo dự báo: khoảng 12g10-12g20, trục thẳng từ Chesbourg-Strasbourg, sẽ thấy nhật thực toàn bộ.”

Người ta tưởng tượng đây là một cuộc kết hôn’, một sự ‘giao phối hoàn hợp’ giữa mặt trăng và mặt trời… Cứ 270 năm mới có một lần (lần trước đây tại Paris vào năm l724 lúc vua Louis XV mới 14 tuổi” (Cf. Famille chretienne N.24/29.7.99 trg 58).

“Trong một góc hành lang: một tượng Đức Mẹ bằng gỗ mun, với kỹ thuật bắt điện cũng thật ý nghĩa. Tượng thật và bóng tượng trên tường cùng gọn trong một vầng sáng dịu như ẩn như hiện… và cũng hoàn toàn thinh lặng!

Âm thầm kết hợp… Âm thầm mà kết hợp… Âm thầm để kết hợp… Bạn hiểu thế nào cũng được… Kết hợp, một sự kết hợp hài hòa trong thinh lặng. Không một tiếng động mà dường như ta lại đang nghe thấy nhiều điều. Chỉ một cảnh trong thinh lặng nhưng lại nói lên thật đầy ý nghĩa. Để lòng mình thinh lặng mà như có sự đối thoại giữa trần thế với trời cao.”

Đúng thật: “Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 19,4-5)

Thinh lặng “không biểu biểu lộ sự trống rỗng”. Tôi rất thích vần thơ thật dễ thương nhưng sâu sắc:

“Nói bằng ánh mắt nhau thôi,
Chi bằng thinh lặng đầy với tấm lòng”.

Đúng thật, thinh lặng “không biểu lộ sự trống rỗng nội tâm” mà là môi trường lắng nghe được nhiều âm thanh huyền bí của Thiên Chúa, khác với sự “tràn ngập âm thanh và ánh sáng” khiến chúng ta bị vong thân, lao vào những sự kiện trần thế.

Thánh Augustinô cũng cảm nghiệm được Chúa – được mình trong thinh lặng nội tâm: “Lạy Chúa, Chúa biết con còn hơn con biết con”; “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.

  1. Duret cũng nói: “Thầm lặng đích thực thì chan chứa tình yêu: Đó là im lặng để cầu xin… im lặng để quan sát… im lặng để quên đi”.

c.      Trong thinh lặng, ta lắng nghe và thực thi ý Chúa

Ước chi sự thinh lặng đó dạy chúng ta biết sự cần thiết và giá trị của việc chuẩn bị, nghiên cứu, suy niệm, của nếp sống cá nhân và nội tâm, của lời cầu nguyện mà chỉ một mình Thiên Chúa nghe thấy trong nơi bí ẩn(Huấn từ của ĐGH Phaolô VI).

Kim Chỉ Nam Linh Mục cũng viết: “Theo mẫu gương thánh Giuse … sự thinh lặng… là một đức tin tròn đầy ngài mang trong tâm hồn, hướng dẫn mọi tư tưởng và hành động”.

Qua phần trình bày trên, ta thấy: Bước (1): Cần sự thinh lặng để xóa đi những ồn ào không cần thiết, có khi bị khuấy động; Bước (2): chính trong thinh lặng, nhất là thinh lặng nội tâm, ta bước vào cầu nguyện để kết hợp với Chúa; Bây giờ đến bước (3): lắng nghe được tiếng Chúa và thực hiện ý Chúa.

Trong đêm thanh vắng, Giuse nghe được lời Thiên sứ báo mộng. Tỉnh dậy, ngài “lập tức” thực hiện điều Chúa đã soi sáng.

Thời nay và nhất là hôm nay: quá nhiều lý thuyết gia mà ít nhân chứng. Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Con người hôm nay cần chứng nhân hơn thầy dạy”.

Noi gương thánh Giuse, hãy tìm những khoảnh khắc thinh lặng nội tâm, tạm gác qua mọi lo âu sinh hoạt bên ngoài, dọn tâm thế sẵn sàng để gặp Chúa (nhìn Chúa và để Chúa nhìn mình), rồi Chúa sẽ nói với ta. Đến phần ta: hãy trở lại cuộc sống và thực thi ý Chúa soi sáng.

Dietrich Bonhoeffer rất sâu sắc khi nói về cầu nguyện, cũng giống cách thế của thánh Giuse, ông nói: “Cầu nguyện là gác qua mọi lo lắng, liên hệ thường nhật để tìm gặp Chúa. Sau giờ cầu nguyện, Chúa lại sai chúng ta trở lại cũng với những con người, liên hệ và môi trường ta vẫn sống; nhưng với tâm tình của Chúa”.

“Muốn trở thành con người, trong đời sống thường ngày, bạn phải biết dành chút thời giờ cho thinh lặng. Bạn hãy học im đi để biết nói lên” (ĐHY Joseph Leo Cardijn).

“Tâm hồn phải lắng xuống trong sự im lặng. Chính lúc đó, Thiên Chúa sẽ tỏ hiện và nói với ta” (M. Eckhart).

Tìm thinh lặng; trong thinh lặng ta cầu nguyện và kết hợp; và chính lúc đó, ta nghe được tiếng Chúa và Ngài thúc giục ta ra đi thực hiện. Đây chính là ngôn ngữ của thánh Giuse.

Bạn hãy tập đi! Tập đi vào thinh lặng để gặp Chúa, nghe được lời Chúa và thi hành điều Chúa dạy. Chỉ trong thinh lặng ta mới đạt được những sự ấy. Chẳng phải màu mè nhưng hành động đạo đức của chúng ta chính là hoa trái của thinh lặng. Và đúng như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).

Phần 2

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

A. HƯỚNG DẪN

Chủ Đề 1
HƯỚNG DẪN VỀ LÒNG ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN
VÀ PHỤNG VỤ VỀ VIỆC TÔN KÍNH THÁNH GIUSE

Chúng tôi trích lại nguyên văn chủ để này trong tài liệu Hướng Dẫn Về Lòng Đạo Đức Bình Dân Và Phụng Vụ của HĐGM-VN (trang 251-256) để chúng ta hiểu thêm an tâm khi thực hiện những việc Đạo đức bình dân theo truyền thống.

Thiên Chúa trong sự khôn ngoan của Ngài, đã thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài bằng cách giao cho Giuse ở Nazarét, “người công chính” (x.Mt 1,19), và hôn phu của Đức Trinh Nữ Maria (x.Mt 1,19; Lc 1,27), một sứ mạng đặc biệt quan trọng: một đàng, Đức  Giêsu, theo pháp lý, vào hàng hậu duệ của Đavít, và như thế Đấng Mêsia Cứu Thế được sinh ra, theo đúng lời hứa trong các Sách Thánh (x.Sm 7,5-16; 1Sb 17,11-14), và đàng khác, đảm nhận chức vụ làm cha và làm người hộ thủ đối với người Con ấy.

Vì chính sứ mạng đó, mà thánh Giuse hiện diện trong những mầu nhiệm thời thơ ấu của Chúa Cứu Thế: ngài nhận từ Thiên Chúa sự mạc khải về nguồn gốc thần linh của tư cách làm mẹ của Đức Maria (x.Mt 1,20-21), và ngài là nhân chứng ưu tuyển cho việc Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem (x. Lc 2,6-7), cho việc thờ lạy của mục đồng (x.Lc 2,15-16) và của các Đạo Sĩ đến từ Phương Đông (x.Mt 2,11); ngài thực hiện bổn phận tôn giáo đối với Hài Nhi bằng cách đưa Hài Nhi vào trong giao ước Abraham lúc cắt bì (x.Lc 2,21) và đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu (x.Mt 1,21); theo Lề Luật, ngài dẫn Hài Nhi vào Đền Thánh và chuộc lại với những lễ dâng của người nghèo (x.Lc 2,22-24; Xh 13,2.12-13) và kinh ngạc nghe lời chúc tụng tiên tri của Simêon (x.Lc 2,25-33); ngài bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Con trong cuộc bách hại của Hêrôđê khi trốn sang Ai Cập (x.Mt 2,13-23); mỗi năm, ngài trẩy lên Giêrusalem với Đức Mẹ và Chúa Con để mừng Lễ Vượt Qua, và đã kinh hoàng trải qua biến cố lạc mất Chúa Giêsu lúc mới được 12 tuổi, và Chúa Giêsu đã ở lại trong Đền Thờ (x.Lc 2,43-50); ngài sống trong mái ấm gia đình ở Nazarét, thi hành quyền làm cha đối với Chúa Giêsu, và Chúa vâng phục ngài (x.Lc 2,51), ngài dạy cho Chúa lề luật và nghề thợ mộc. (số 218)

Suốt bao nhiêu thế kỷ và nhất là thời kỳ gần đây, suy niệm của Giáo hội đã làm sáng tỏ các nhân đức của thánh Giuse, trong các nhân đức đó có đức tin, là nhân đức đã thể hiện nơi ngài bằng việc tham dự trọn vẹn và dũng cảm vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa; sự vâng phục vô điều kiện và thầm lặng thánh ý Thiên Chúa; lòng yêu mến và sự rất mực tôn trọng Lề Luật; lòng đạo đức chân thành và sức mạnh trước những thử thách; tình yêu trinh khiết mà ngài chứng tỏ đối với Đức Trinh Nữ Maria; việc chuyên cần thi hành các bổn phận người cha gia đình, lòng yêu thích cuộc đời ẩn dật và cần mẫn. (Số 219)

Lòng đạo đức bình dân làm nổi bật tầm quan trọng và tính phổ quát của quyền bảo hộ nơi thánh Giuse, “Thiên Chúa đã muốn đặt dưới sự bảo hộ cẩn trọng của ngài những bước đầu công cuộc cứu chuộc”[14], và “những kho tàng quý giá nhất của Thiên Chúa”[15]. Thánh Giuse hằng bảo hộ cho toàn thể Giáo hội, mà Chân phước Giáo hoàng Piô XI đã muốn đặt dưới sự che chở đặc biệt của thánh Tổ Phụ[16]; những người dâng mình cho Chúa và chọn sống độc thân vì nước trời (x.Mt 19,12): “thánh Giuse vừa nêu gương, vừa bảo vệ nhân đức trinh khiết cho họ”; những người lao động và những thợ thủ công cũng noi gương mẫu mực nơi người thợ mộc Nazarét[17]; những người đang hấp hối, vì theo một truyền thống đạo đức, thánh Giuse đã từng được Chúa Giêsu và Mẹ Maria có mặt bên cạnh trong lúc lâm chung[18]. (Số 220)

Phụng vụ thường nhắc đến thân thế và vai trò của thánh Giuse khi cử hành những mầu nhiệm trong cuộc đời Chúa Cứu Thế, nhất là trong những cử hành liên quan đến Chúa giáng sinh và thời thơ ấu của Ngài, nghĩa là trong Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, đặc biệt trong dịp lễ Thánh Gia, lễ trọng thể ngày 19 tháng 03, và lễ nhớ ngày 01 tháng 05.

Danh ngài được nhắc đến trong phần Hiệp thông của Lễ Quy Rôma và trong Kinh cầu các thánh. Các lời nguyện cho ngời lâm cơn hấp hối gợi ý kêu cầu Thánh Tổ Phụ; cũng như cộng đoàn cầu xin để linh hồn người mong sinh thì, khi rời khỏi đời này, được dẫn đưa “vào sự bình an của Giêrusalem trên trời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, thánh Giuse và toàn thể các Thiên Thần và các Thánh” (Số 221).

Lòng tôn sùng thánh Giuse cũng chiếm một chỗ quan trọng trong lòng đạo đức bình dân: thí dụ, trong nhiều biểu hiện khác nhau của nền văn học dân gian nơi một số dân tộc; trong tục lệ có từ cuối Thế kỷ XVII, xem ngày Thứ Tư như một ngày để kính thánh Giuse; về vấn đề này, nên ghi nhận một số việc đạo đức, như Tuần Bảy ngày Thứ Tư, gắn liền với truyền thống đạo đức này[19]. Lòng tôn kính của các tín hữu đối với thánh Giuse còn khơi nguồn cảm hứng cho những lời nguyện đạo đức, mà nhiều người thích đọc lên cách tự phát, cũng như một số kinh nguyện, như kinh do Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã soạn: Lạy Thánh Cả Giuse, chúng con chạy đến cùng ngài, là kinh được nhiều tín hữu đọc mỗi ngày[20], và cả những kinh cầu thánh Giuse đã được thánh Piô X chuẩn nhận, và cuối cùng, việc đạo đức lần tràng hạt Bảy sự lo buồn và bảy sự vui mừng của thánh Giuse. (Số 222)

Những khó khăn trong việc giữ sự hài hòa giữa Phụng Vụ và các biểu hiện của lòng đạo đức bình dân có thể nảy sinh từ sự kiện lễ trọng thể kính thánh Giuse (19-03) được cử hành trong Mùa Chay, vốn là mùa phụng vụ dành trọn cho việc chuẩn bị các Lễ Rửa Tội và cho việc cử hành tưởng niệm cuộc Thương Khó Chúa. Vậy điều cần thiết là những việc sùng kính truyền thống “của tháng thánh Giuse” phải hòa hợp với mùa phụng vụ đang được cử hành. Trên thực tế việc canh tân Phụng Vụ đã tạo điều kiện cho tín hữu đào sâu ý nghĩa đích thực của Phụng Vụ Mùa Chay. Tuy nhiên, trong khi thích nghi các biểu hiện của lòng đạo đức bình dân với yêu sách đó, vẫn cần khuyến khích và phổ biến lòng sùng mộ đối với thánh Giuse, bằng cách luôn có trong tâm trí “gương mẫu tuyệt vời vượt trên các bậc sống riêng và được đề nghị với toàn thể cộng đoàn Kitô hữu” cho dù các tín hữu ở đấng bậc nào, gặp hoàn cảnh nào, và đang có những bổn phận nào[21].

Chúng ta có thể tổng kết các thời điểm, hình thức đạo đức dành cho Thánh Cả Giuse:

  • Thời điểm

  • 19-03: Kính trọng thể thánh Giuse

  • 01-05: Lễ thánh Giuse Thợ, bổn mạng giới lao động

  • Tháng 3: Tháng kính thánh Giuse

  • Ngày Thứ Tư trong tuần: nhớ thánh Giuse (bắt đầu từ Thế kỷ XVII)

  • Các hình thức:

  • Kinh cầu thánh Giuse

  • Tuần Cửu Nhật Thánh Giuse

  • Tuần Cửu Nhật mừng lễ Thánh Giuse (10-18 tháng 03)

  • Chuỗi môi khôi thánh Giuse

  • Bảy sự đau đớn và vui mừng thánh Giuse

Chủ Đề 2:
TUẦN CỬU NHẬT
VÀ TUẦN CỬU NHẬT THÁNH GIUSE

Tuần Cửu nhật (Neuvaine), tên có xuất xứ từ tiếng Latinh là Novem (neuf: chín) xuất hiện trong Giáo hội Công giáo như một việc đạo đức cá nhân hoặc tập thể, kéo dài trong chín ngày nhằm cầu xin một ơn gì đó. Tuần Bát nhật (Octave) lại nói lên sự mừng vui, đại lễ; trong khi Tuần Cửu nhật lại bao gồm cả việc nhớ đến người chết, mong một điều gì đó trong khao khát với lời nguyện cầu. Qua đó, chúng ta thấy Tuần Cửu nhật rõ ràng nhất là 9 ngày từ khi Chúa Giêsu về trời và Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần (Pentecôte),“chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su” (Cv 1,14).

Tuần Bát nhật được ghi trong Phụng vụ: Bát nhật Giáng Sinh và Bát nhật Phục Sinh. Tuần Cửu nhật cũng dần dần được thẩm quyền Giáo hội cho phép nhưng chưa được ghi vào Phụng vụ.

1.   Những xác định căn bản về Tuần Cửu nhật

  • Chúa Giêsu truyền cho các Tông đồ ở lại cùng cầu nguyện với Đức Mẹ để chờ đợi Chúa Thánh Thần xuống trên các ngài trong 9 ngày.

  • Đây là nền tảng chính thức của hình thái cầu nguyện trong 9 ngày mà người ta gọi là Tuần Cửu nhật.

  • Định nghĩa: Tuần Cửu nhật là cách cầu nguyện hoặc những hành vi đạo đức được lặp đi lặp lại trong vòng 9 ngày với mục đích tôn kính một vị thánh hoặc cầu xin cho một ơn huệ đặc biệt.

2.   Phân loại các Tuần Cửu nhật

Hình thức làm Tuần Cửu nhật càng ngày càng phát triển trong tâm thức của tín hữu. Dù sự phân biệt sau đây không hoàn toàn bó buộc phải tin và phải giữ, nhưng chúng ta có thể phân biệt theo truyền thống đạo đức bình dân trong Giáo hội làm 4 loại:

a.      Tuần Cửu nhật dành cầu nguyện cho người qua đời (Neuvaine de deuil)

Theo thông lệ của người Hy lạp lẫn người Rôma, người ta còn giữ một lễ nghi quan trọng ngày thứ 9 sau khi chết hoặc chôn cất người thân. Riêng người Rôma, người ta giữ lễ 9 ngày chôn cất cha mẹ, người thân (Parentalia Novendialia) hằng năm từ ngày 13 đến 22 tháng Giêng. Người ta tìm thấy nguồn gốc này trong bộ luật của Hoàng đế Giútinô.[22]

Constitutiones Apostolicae[23] cũng nói đến Tuần Tam nhật và Tuần Bảy ngày dành cho người chết. Những vấn đề liên quan đến việc cầu nguyện cho người chết được tìm thấy qua Sắc lệnh Constitution Praecipuum của ĐGH Bênêđictô XIV, ngày 23-04-1741; Novendiales precum et Missarum devotiones pro defunctis của ĐGH Grêgôriô XVI, ngày 11-07-1853.[24]

Năm 2005, sau khi ĐGH Gioan-Phaolô II băng hà, toàn Giáo hội cùng thông công Tuần Cửu nhật dành cho ngài.[25]

b.      Tuần Cửu nhật chuẩn bị (Neuvaine de préparation)

Bắt đầu từ Tây Ban Nha, chính thức từ Công Đồng Miền Têlêdê thứ X, truyền cử hành Tuần Cửu nhật chuẩn bị Lễ Giáng Sinh. Rồi phong tục này lan sang Pháp. Vào những ngày này, người ta tổ chức đọc kinh Thần vụ trọng thể, có khi xông hương bàn thờ, có nơi còn đặt Mình Thánh Chúa. Còn tại Cicile, Tuần Cửu nhật chuẩn bị này trở nên thịnh hành vào dịp kỷ niệm Đấng sáng lập của các Dòng tu, lễ này còn được diễn tả trong Thánh Lễ (Missæe votivæ 30-06-1896).

Tuần cửu nhật này được tổ chức để chuẩn bị cho một đại lễ hoặc một dịp kỷ nniệm đặc biệt nào đó.

c.      Tuần Cửu nhật cầu nguyện (Neuvaine de prière)

Với những nhu cầu phức tạp trong đời sống, giáo hữu lại hình thành ra Tuần Cửu nhật cầu nguyện (cầu xin) với các vị thánh. Nguồn gốc của thói quen đạo đức này được phát xuất từ Pháp, Bỉ, hạ lưu sông Rhin. Họ chạy đến các vị thánh được tiếng chữa lành các bệnh tật, đặc biệt tại nguyện đường Đan viện Thánh Gia ở Bordeaux. Phái Jansénistes cực lực phản đối phong trào này. Vào thế kỷ XIV đã loại trừ những nét mê tín thái quá của sự sùng kính; nhưng vẫn bảo lưu những ích lợi chính đáng của Tuần Cửu nhật. ĐGH Bênêđictô XIV cũng nói đến một số phép lạ liên quan đến vấn đề này.

Cá nhân hoặc tập thể tổ chức Tuần Cửu nhật với lòng sùng kính đấng thánh nào đó hoặc cầu xin ngài điều gì cần thiết cho họ.

d.      Tuần Cửu nhật xin ân xá (Neuvaine indulgenciée)

Khía cạnh xin ân xá luôn được tín hữu với lòng đạo đức cầu xin với các thánh cầu bầu. Phong tục này đã được thẩm quyền Giáo hội xác nhận.

Con số 10 toàn hảo (numerus maximus) thường được dành cho Chúa. Với một cách giải thích xác tín, Trường phái  PythagoriciensPhilon le Juif, và một số Giáo phận, các đan sĩ thời Trung cổ đã hợp lý hóa con số 9, con số đẹp của con người bất toàn dâng lời nguyện xin lên Chúa[26] để Ngài tha tội và ban ơn.

Hình thức không bó buộc, tùy cá nhân hoặc tập thể, cùng nhất trí đọc những gì, làm những gì với mục đích xin ơn đền tội, tha tội, sám hối.

3.   Tuần Cửu nhật Thánh Giuse

Như đã nói trên, nói về con số 9, người ta thấy được nền tảng là các Tông đồ của Chúa Giêsu cùng với Đức Maria đã trải qua 9 ngày cầu nguyện từ lễ Chúa lên trời và lễ Ngũ tuần trước khi đón nhận Chúa Thánh Thần: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su” (Cv 1,14).

Ngày nay, nhiều hình thức Tuần Cửu nhật luôn được Giáo hội khích lệ. Những Tuần Cửu nhật phổ thông nhất hiện nay là Tuần Cửu nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Neuvaine à de l’Esprit-Saint), Tuần Cửu nhật kính Đức Mẹ Vô Nhiễm (Neuvaine à l’immaculée conception) ngày 08-12 và cả Tuần Cửu nhật kính thánh Giuse (Neuvaine à saint Joseph) ngày 19-03.

Tuần Cửu nhật thánh Giuse là lòng sùng kính của các tín hữu công giáo dâng kính Thánh Cả, Đấng bảo dưỡng Chúa Giêsu Kitô. Lòng sùng kính đó đã trở thành truyền thống được lặp lại suốt tháng Ba, tháng kính thánh Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu tại Nazarét.

Trong suốt 9 ngày, mỗi ngày nên đọc theo Tuần Cửu nhật, hoặc 9 ngày chuẩn bị mừng kính thánh Giuse; hoặc có thể đọc chuỗi môi khôi thánh Giuse với năm sự Vui mừng, năm sự Thương mà chúng ta sẽ trình bày ở chủ đề tiếp theo.

4.   Thánh Giuse bảo vệ dòng kín Cát Minh

Năm 1582, thánh Gioan Thánh giá làm bề trên Tu viện “Các Thánh Tử Đạo” tại thành Grênada. Ngài cũng đích thân cộng tác vào việc thiết lập tu viện Cát Minh và thường xuyên lui tới huấn đức cho chị em.

Có một lần bận việc, ngài ủy thác hai cha dòng đi thay. Lúc trở về gần tới nhà thì hai ngài gặp một người tướng mạo khôi ngô, da trắng hồng, tóc bạc phơ, vẻ uy nghi đáng kính.

Ông già hỏi:

  • Thưa các cha đi đâu về?

  • Chúng tôi ở nhà dòng Cát Minh về.

  • Các cha giúp đỡ nhà dòng ấy thì tốt lắm, vì dòng ấy rất đẹp lòng Chúa và có cơ phát triển mạnh. Mà tại sao dòng ấy có lòng sùng kính Thánh Giuse nhiều thế?

  • Bởi Mẹ Têrêxa của chúng tôi – người mới qua đời – rất nhiệt thành với Thánh Cả. Vì ngài đã giúp bà lập nhiều tu viện và cầu bầu cùng Chúa cho bà nhiều ơn; nên các tu viện bà lập, đều đặt dưới quyền bảo trợ của thánh Giuse.

  • Lúc đó, ông khách kỳ lạ nói:

  • Và sẽ còn nhiều ơn khác nữa. Xin các cha hãy nhận diện tôi và nhắn chị em hãy vững lòng sùng mộ Thánh Cả vì chẳng có gì chị em xin ngài mà chẳng được.

Bỗng người lạ biến mất. Hai cha sững sờ chẳng hiểu ra sao. Về tới nhà, hai cha kể lại cho bề trên mọi chuyện. Nhưng thánh Gioan đã không lấy gì làm lạ, liền bảo các cha:

  • Các cha không nhận ra ai sao? Thánh Giuse đó. Hãy tạ ơn ngài. Ngài hiện ra không phải vì các cha, nhưng vì tôi chưa có lòng kính mến ngài cho xứng đáng!

(Trích dịch từ Saint Joseph, Mgr. Christiani)

Theo tương truyền, Tuần Cửu nhật thánh Giuse bắt nguồn từ Dòng kín Cát Minh ở Avila qua nhiều giai đoạn. Bản kinh Tuần Cửu nhật thánh Giuse chúng ta vẫn thường đọc là bản mô phỏng bản “Cửu nhật kinh nguyện” của Dòng Cát Minh Sài Gòn từ rất lâu, với những bài suy niệm đặc sắc về quyền chức, nhân đức và từ tâm của Thánh Cả, dựa trên cơ sở giáo lý dồi dào, có sức hun đúc lòng tôn sùng, trông cậy Thánh nhân.[27]

B. THỰC HÀNH

Chủ Đề 1
TUẦN CỬU NHẬT THÁNH GIUSE

v Thứ Tự:

  1. Kinh dọn mình.

  2. Bài suy niệm.

  3. Kinh Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh.

  4. Kinh cầu Thánh Giuse.

  5. Bài hát kính thánh Giuse.

I.         Kinh Dọn Mình

Lạy Thánh cả Giuse, là Đấng phù hộ mạnh thế trước toà Chúa, là cha nhân hiền của chúng con, người con thảo hiếu trung thành của cha, quả quyết không bao giờ khẩn cầu cha mà vô hiệu. Vì vậy trong tuần cửu nhật này, chúng con hết lòng trông cậy chạy đến cùng cha. Xin cha cầu bầu cho chúng con trước toà Chúa Giêsu, là Đấng xưa kia cha đã nhiệt thành bảo hộ, Đấng mà chẳng nề trọng kính vâng lời cha, như một người con thảo. Amen.

II. Phần Suy Niệm[28]

Ngày Thứ Nhất
(Một người đọc)

Ta hãy suy: Thế lực Thánh Cả Giuse khiến ta tôn sùng Ngài.

Muốn hiểu thế lực của Ngài, ta hãy xem Thánh Gia xưa tại Nagiaret. Nơi đây, có Ngôi Thiên Chúa mặc lốt Hài Nhi…Nơi đây, có các thiên thần cung kính run sợ, sấp mặt xuống không dám nhìn dung nhan Chúa…Nơi đây có Đức Maria, Nữ Vương trời đất, là kiệt tác của tay Đấng toàn năng, là Nữ Đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, cũng là Đấng ban phát mọi điều đẹp lòng Chúa.

Chẳng phải chỉ có Chúa Giêsu và Đức Mẹ ở đây, song còn có một gia trưởng điều khiển mọi việc cửa nhà cách vô cùng đầm ấm. Chúa Giêsu đã tỏ dạ yêu thương và hết lòng vâng phục ngài. Một gia trưởng có nhiệm vụ giữ gìn, nâng đỡ, dưỡng nuôi Chúa Giêsu cùng Đức Mẹ bằng việc làm vất vả. Một gia trưởng đã làm phận sự cao trong hơn phận sự các đấng tiên tri. Gia trưởng đó chính là Thánh Cả Giuse. Còn danh vọng nào sánh cho bằng! Chức cao cả ấy giục ta phải tôn kính ngài hết dạ.

Lời cầu nguyện (Cộng đoàn)

Lạy Thánh Cả Giuse, là Đấng Chúa đặt lên làm chủ nhà Chúa, xin ghé mắt thương xem các gia đình chúng con. Hãy đưa tay mạnh mẽ hộ vực chở che, và cầu cùng Chúa xuống ơn cho gia đình chúng con, được trung thành cùng Chúa và Giáo hội chẳng lỗi đạo. Lại cho mọi người trong gia đình chúng con bình an, thuận hoà, nhất là sau này được sum họp cùng nhau trên cõi hằng sống.

Lại nữa, lạy Thánh Cả Giuse vinh hiển, nếu đẹp lòng Chúa và ích lợi cho linh hồn chúng con, xin ban cho chúng con ơn riêng chúng con kêu cầu cùng Thánh Cả trong tuần Cửu Nhật này. Lại xin cho chúng con trung thành với bổn phận, và sau này đạt tới phúc trường sinh. Amen.

Ngày Thứ Hai
(Một người đọc)

Ta hãy suy: Các nhân đức Thánh Cả Giuse khiến ta sốt sắng tôn sùng Ngài.

Thánh Giuse có đủ mọi nhân đức mà Ngài đã thực hiện cách phi thường, xứng với một vị Đại Thánh, phúc âm đã khen Ngài là đấng công bình chính trực, nghĩa là nên thánh nên lành, đầy đủ mọi công nghiệp phúc đức.

Sứ mạng siêu phàm Thiên Chúa trao phó cho Ngài là làm chủ Thánh gia, làm Cha Đồng Trinh Chúa Con và Bạn Trăm năm Đức Mẹ. Chức vụ Ngài càng lớn thì ân sủng Chúa ban xuống cho Ngài càng nhiều. Đã vậy, sự tiếp xúc thân mật hằng ngày với Chúa Con và Đức Mẹ lại là một nguồn tăng trưởng thánh đức liên tục cho Ngài. Linh hồn Thánh Cả là một kỳ công của ân sủng và đạo hạnh.

Ai kể cho xiết, ai khen ngợi cho cùng. Đức tin mạng mẽ nhanh nhẹn của Thánh nhân, khi gặp cơn gian nan thử thách? Đức Trông cậy của Ngài không bờ bến hằng thuận theo ý Chúa an bài. Đức Phục tùng mau kíp kiên trì, khi có lệnh trời ban xuống. Đức Cần mẫn, siêng năng, không hề vất vả, ưa sống cần lao, ham mê hoạt động. 

Lời cầu nguyện (Cộng đoàn)

 Lạy Thánh Cả Giuse rất trung thành vâng theo ơn Chúa Thánh Thần, xin cầu cho chúng con được biết thánh ý Chúa phân định phải chọn bậc sống nào. Xin chớ để chúng con lầm lạc trong việc quan trọng nhất đời chúng con, bây giờ và mai hậu. Lại xin cho con cái vâng theo ý Chúa, quý trọng bậc sống mình, và giữ các nhân đức xứng hợp.

Lại nữa, lạy Thánh Cả Giuse vinh hiển, nếu đẹp lòng Chúa và ích lợi cho linh hồn chúng con, xin ban cho chúng con ơn riêng chúng con kêu cầu cùng Thánh Cả trong tuần Cửu Nhật này. Lại xin cho chúng con trung thành với bổn phận, và sau này đạt tới phúc trường sinh. Amen.

Ngày Thứ Ba
(Một người đọc)

Ta hãy suy: Về đức Khiêm nhượng, khó nghèo và tinh thần cầu nguyện của Thánh Giuse.

Trong các nhân đức Thánh Cả, ta hãy chiêm ngưỡng Đức Khiêm nhượng của Ngài. Là con vua Đavít, Ngài chẳng nề vất vả làm nghề thợ mộc mà sinh sống. Giữ hai kho báu bởi trời là Chúa Con và Đức Mẹ, Ngài vẫn thinh lặng khiêm nhượng, không hề mở miệng khoe khoang. Ngài đã học được cùng Hai Đấng sự khiêm nhượng và lòng yêu chuộng đời sống ẩn dật.

Ai nói cho cùng, Ngài ham chuộng làm việc trong cảnh khó nghèo, mà Ngài đã biến thành Phúc âm thứ nhất của Tin mừng?

Ai suy cho thấu, đời sống cầu nguyện thân mật của Ngài với Chúa Giêsu và Đức Mẹ? Ngót ba mươi năm trường, ngày đêm, Ngài hằng chung sống với Hai Đấng ăn chung một bàn, làm chung một việc, chỉ lo lắng cho Hai Đấng, và Hai Đấng cũng lo lắng cho Ngài cách vô cùng hoàn hảo. Đẹp đẽ thay, sốt mến thay, cảnh Thánh Cả cầu nguyện chung cùng Chúa Con và Đức Mẹ! Lòng Ngài tràn ngập ơn phước ngần nào! Ai mà chẳng ước ao số phận Thánh Cả? Chính vì thế, những linh hồn yêu mến đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện đều chọn Ngài làm gương mẫu và bổn mạng.

Lời nguyện (Cộng đoàn)

 Lạy Thánh Cả Giuse là Đấng hộ vực Chúa Giêsu và Đức Mẹ, con xin gửi gấm nơi Thánh Cả các thiếu nhi và thiếu nữ công giáo. Xin khấng phù hộ giữ gìn những tấm lòng trong trắng khỏi mọi hiểm nguy, cùng thúc giục giới trẻ dịu dàng yêu mến Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Cả, để được ơn nâng đỡ đời này và hạnh phúc vô cùng đời sau.

Lại nữa, lạy Thánh Cả Giuse vinh hiển, nếu đẹp lòng Chúa và ích lợi cho linh hồn chúng con, xin ban cho chúng con ơn riêng chúng con kêu cầu cùng Thánh Cả trong tuần Cửu Nhật này. Lại xin cho chúng con trung thành với bổn phận, và sau này đạt tới phúc trường sinh. Amen.

Ngày Thứ Tư
(Một người đọc)

Ta hãy suy: Về Đức Trinh Khiết của Thánh Cả Giuse.

Chỉ có thiên thần bởi trời xuống mới ca ngợi đức Trinh bạch của Thánh Cả cho xứng được. Để có một quan niệm về sự trong trắng tuyệt vời của Ngài, ta nên nhớ lại vì danh nghĩa và mục đích nào, Thiên Chúa đã đặt Ngài bên cạnh Chúa Giêsu và Đức Mẹ.

Trong tất cả loài người, qua muôn thế hệ, Thánh Cả Giuse được kén chọn để làm bạn trăm năm Đức Maria, là Đấng trong sạch hơn chín phẩm Thiên Thần, là Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh, là Từ Mẫu của Ngôi Lời Nhập thể. Với danh nghĩa ấy, Ngài đã thương yêu, hộ vực Bà, và bảo toàn danh thơm tiếng tốt cho Bà trước mặt thiên hạ.

Ôi, trinh khiết thay, tâm hồn Ngài trong trắng như thiên thần đã toả nực mùi hương thơm ngào ngạt! Dịu ngọt thay, mùi vị Đức đồng trinh toát ra bởi ngực Thánh Cả, nơi mà Chúa Hài Nhi bao lần đã ngủ lịm êm đềm! Trong sạch thay, tay Ngài đã bồng bế Chúa Con và giúp đỡ Đức Mẹ! Ôi, ai đã hiểu thấu lòng trinh khiết vẹn tuyền Thánh Cả! Ai ca tụng cho cùng? Ai kể cho xiết những ơn lành Ngài xin được nơi Chúa cho những linh hồn muốn theo gương trinh khiết của Ngài!

Lời cầu nguyện (Cộng đoàn)

 Lạy Thánh Cả Giuse phước lộc, là cha Chúa Giêsu và bạn Trinh khiết Đức Mẹ, xin hãy làm Đấng bảo trợ con. Xin lấy dây tình thân ái của Ngài đối với Hai Đấng mà ràng buộc lấy con! Từ đây, tấm lòng rất nhân lành, rất trong sạch của Ngài sẽ nên chốn con ẩn dật trước mọi nguy nan cám dỗ. Qua Thánh Cả, con đến cùng Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Và theo gương Hai Đấng, con sẽ kính yêu Thánh Cả trọn Đời.

Lại nữa, lạy Thánh Cả Giuse vinh hiển, nếu đẹp lòng Chúa và ích lợi cho linh hồn chúng con, xin ban cho chúng con ơn riêng chúng con kêu cầu cùng Thánh Cả trong tuần Cửu Nhật này. Lại xin cho chúng con trung thành với bổn phận, và sau này đạt tới phúc trường sinh. Amen.

Ngày Thứ Năm
(Một người đọc)

Ta hãy suy: Về sự kính mến Chúa Giêsu và Đức Mẹ nơi Thánh Cả Giuse.

Lạ lùng thay, thắm thiết thay, mối tình Thánh Cả dành cho Chúa Hài Đồng! Đó là mối tình của cha hiền dành cho người Con duy nhất, đẹp đẽ, khôn ngoan. Cũng là mối tình của con thảo dâng lên Chúa cả cao sang, toàn năng, nhân hậu. Yêu Con cũng là mến Chúa, mến Chúa cũng là yêu Con. Tự nhiên và ân sủng đã phối hợp cách lạ lùng nơi tình yêu ấy!

Khi Cha trên trời muốn ban cho Con Ngài một người cha dưới thế, thì lẽ tất nhiên phải phú vào lòng ông một tình phụ tử xác thực, sâu sắc, chân thành. Thiên Chúa đã ban tình yêu của chính mình cho Thánh Cả, cũng như đã ban cho Thánh Mẫu, tuy mức độ khác nhau, để hai Đấng làm cha, làm mẹ Con Ngài.

Biết bao lần, lòng Thánh Cả chẳng hừng cháy, khi chiêm ngưỡng Hài Nhi mũm mỉm, trắng hồng nằm trên mớ cỏ xanh? Hoặc khi bồng Hài Nhi ấp ủ trên lồng ngực? Còn cái vui nào hơn cái vui thấy Hài Nhi, theo dòng năm tháng, “cứ tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dạng và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta” Đấng đem lửa xuống thế gian mà chẳng khởi sự đốt lên trong lòng cha mình sao?

Đồng thời, Thánh Cả cũng dành cho Mẹ Maria mối tình yêu thắm thiết trinh trong đượm nhuần cung kính xứng vị Mẹ Thiên Chúa. Càng chung sống, Ngài càng cảm mến không khí thanh sáng trong gia đình do Mẹ tạo nên bởi đức hạnh và ân sủng dạt dào.

Lời cầu nguyện (Cộng đoàn)

 Lạy Thánh Cả Giuse no đầy vinh phước, vì tình thương yêu mặn nồng của ba Đấng khi còn ở thế gian, xin Ngài khấng giúp con nên thánh thiện. Xin Ngài hãy làm linh hướng và kiểu mẫu cho tất cả các linh hồn ái mộ đàng trọn lành và tình mến Chúa. Lạy Đấng được vinh phước thông hiểu đàng trọn lành: Mến Chúa Giêsu và Đức Mẹ trước tiên, xin hãy giúp con được yêu mến cho thực, để chung cùng Thánh Cả và nhờ Thánh Cả, con biết yêu Đức Mẹ hầu gặp Chúa Giêsu, mà kính mến Ngài muôn đời.

Lại nữa, lạy Thánh Cả Giuse vinh hiển, nếu đẹp lòng Chúa và ích lợi cho linh hồn chúng con, xin ban cho chúng con ơn riêng chúng con kêu cầu cùng Thánh Cả trong tuần Cửu Nhật này. Lại xin cho chúng con trung thành với bổn phận, và sau này đạt tới phúc trường sinh. Amen.

Ngày Thứ Sáu
(Một người đọc)

Ta hãy suy: Về thế lực Thánh Cả cầu bầu cho kẻ tôn kính Ngài.

Muốn biết thế lực Thánh Cả trên thiên đàng ngày nay, không gì bằng nhớ lại công việc Ngài đã làm xưa trong Nhà Nagiaret. Nơi đây, vì phận sự gia trưởng, Ngài đã xếp đặt mọi công việc cho Đức Mẹ và Chúa Con. Ngót ba mươi năm trường, hai Đấng đã lấy làm hạnh phúc được vâng lời Ngài trọn vẹn, chẳng lấy chi làm sung sướng cho bằng làm vừa lòng đẹp ý Ngài luôn. Ấy là thế lực Ngài ở trần gian; huống chi trên Thiên đàng, quyền uy Ngài còn lớn hơn gấp bội. Có lẽ nào trên chốn vinh quang, Chúa Giêsu và Đức Mẹ lại phai lạt lòng yêu mến đối với Ngài? Tất nhiên lời cầu nguyện của Ngài phải mạnh thế dường nào. Đấng Cứu Thế vừa thấy đôi tay, suốt ba mươi năm đã làm lụng vất vả để nuôi mình, rày chắp lại van xin thì cầm lòng sao chẳng mau kíp ban ơn.

Lời cầu nguyện (Cộng đoàn)

Lạy Thánh Cả Giuse, con xin Ngài dâng lời con cầu nguyện, qua tay dịu dàng Đức Mẹ, lên toà cao sang Chúa Giêsu, Đấng xưa đã khấng làm Con Thánh Cả, ắt con sẽ được như lòng. Bởi Mẹ Thánh Têrêsa đã quả quyết: không lần nào Mẹ Thánh xin sự gì với Thánh Cả mà không được. Với niềm trông cậy ấy, con khiêm cung phó thác mình và mọi người thân thuộc trong tay nhân từ Thánh Cả, xin Ngài gìn giữ chở che trong những khốn khó xác hồn. Con cũng xin dâng lên Thánh Cả nguyện vọng của những người ốm đau bệnh tật, sầu khổ gian truân, để họ được an ủi cứu chữa. Sau hết, xin Thánh Cả cầu bầu cho chúng con biết nhẫn nhục, vâng theo ý Chúa trong mọi nỗi gian truân và lợi dụng mọi cơn thử thách để nên thánh.

Lại nữa, lạy Thánh Cả Giuse vinh hiển, nếu đẹp lòng Chúa và ích lợi cho linh hồn chúng con, xin ban cho chúng con ơn riêng chúng con kêu cầu cùng Thánh Cả trong tuần Cửu Nhật này. Lại xin cho chúng con trung thành với bổn phận, và sau này đạt tới phúc trường sinh. Amen.

Ngày Thứ Bảy
(Một người đọc)

Ta hãy suy: Về gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Thánh tôn sùng Thánh Cả Giuse.

Chính Chúa Giêsu là thầy dạy đầu tiên và mẫu gương cao trọng về sự tôn sùng Thánh Cả. Có lẽ nào ta không kính mến Đấng mà Chúa đã quý yêu hết lòng? Có lẽ nào ta chẳng cậy trông Đấng mà trót đời Chúa đã gửi tấm thân ngà ngọc? Làm sao ta lại không đặt hết tin tưởng vào lời cầu nguyện của Đấng, mà xưa Chúa vâng lời như con thảo?

Đức Mẹ cũng đồng tình với Chúa Con mà dạy ta kính tôn Thánh Cả. Ngoài Chúa Giêsu, Đức Mẹ chẳng hề quý mến ai hơn bạn trăm năn thanh tịnh của mình, ngày ngày sống chung thân thiết, bữa bữa giúp đỡ tận tình, lưỡi nào nói được! Ngày nay, trên trời, Đức Mẹ muốn làm hiển vinh Thánh Cả, nên thường chuyển thông nhiều ân phước xuống những kẻ nhiệt thành kính tôn Ngài.

Giáo hội, là Thánh gia mở rộng, Thánh gia nối dài, cũng nhiệt liệt tôn sùng Thánh Cả. Năm 1870, Đức Giáo Hoàng Piô IX, trước những ưu tư thời đại, muốn phó mình và giáo hữu trong tay Thánh Cả hộ phù, đã tôn Ngài làm quan thầy toàn thể Giáo hội, và truyền dạy hằng năm phải mừng lễ trọng thể kính Ngài. Càng ngày ta càng nhận thấy: vinh quang Ngài chiếu dãi, nhân đức Ngài sáng ngời, lời cầu Ngài vạn năng, sự can thiệp Ngài mạnh thế. Và lòng sùng mộ của mọi tầng lớp trong Giáo hội quy về Thánh Cả, như về một vị cha già vô cùng phúc hậu.

Lời cầu nguyện (Cộng đoàn)

Lạy Đấng bảo trợ rất mạnh thế của Giáo hội, con xin phó thác cho Ngài mọi nhu cầu của Giáo hội, là mẹ chúng con. Xin hộ vực Đức Giáo Hoàng và hàng Giám mục. Xin cho các Linh mục, các tu sĩ được trau dồi mọi nhân đức xứng bậc, cùng nhiệt thành lo phần phúc các linh hồn. Xin phù hộ các giáo hữu, nâng đỡ người lành, cải thiện người ác, hướng dẫn lương dân tìm về Nhà Cha. Xin cứu vớt các linh hồn nơi luyện ngục, hãy làm tê liệt các mưu chước quỷ ma.

Lại nữa, lạy Thánh Cả Giuse vinh hiển, nếu đẹp lòng Chúa và ích lợi cho linh hồn chúng con, xin ban cho chúng con ơn riêng chúng con kêu cầu cùng Thánh Cả trong tuần Cửu Nhật này. Lại xin cho chúng con trung thành với bổn phận, và sau này đạt tới phúc trường sinh. Amen.

Ngày Thứ Tám
(Một người đọc)

Ta hãy suy: Về Lòng Nhân hậu của Thánh cả Giuse đối với đoàn con kính mến Ngài.

Giuse là người công chính, đấng thánh thiện tuyệt vời. Ngài thuộc về khởi nguyên đạo thánh. Ngài là hiền phụ Chúa Giêsu. Chính Chúa đã nhìn nhận Ngài là cha, tùng phục Ngài mọi đàng, và thánh hoá Ngài qua bao năm chung sống. Còn hình ảnh nào cao đẹp, cảm động bằng hình ảnh Ngài bồng Ấu Chúa trên tay, hoặc dắt đi lẫm chẫm bên mình? Sứ mạng Ngài là làm Thiên Thần hộ thủ của Ấu Chúa.

Thánh Cả là hiền phu Đức Mẹ, mà trót đời Ngài hết dạ yêu thương, một lòng kính ái. Nhân đức Ngài lấp lánh như sao sáng trên trời. Ngày nay trên chốn vinh quang, Chúa Giêsu tôn trọng Ngài, và coi lời cầu nguyện của Ngài như một mệnh lệnh.

Tuy cao xa mà Ngài lại rất gần gũi, rất thông cảm nỗi niềm con cái, sẵn sàng ra tay cứu giúp. Sinh thời, Ngài đã trải qua cảnh phù trầm nhân thế, nếm đủ mùi đắng cay, nên dễ xót thương thân phận lao đao con cái.

Trẻ nhỏ Ngài thương yêu, bậc già Ngài săn sóc, chuyện gia đình Ngài giúp đỡ, việc Giáo hội Ngài lo toan. Nhất là trong đời sống hằng ngày, giữa những thử thách thường xuyên, sự can thiệp của Ngài mau mắn, hữu hiệu. Thánh Cả là cha hiền, con cái đến gõ cửa lúc nào cũng sẵn sàng.

Lời cầu nguyện (Cộng đoàn)

Lạy Thánh cả Giuse là cha nhân hậu, xin cho chúng con được cảm thấy sự săn sóc kín nhiệm, nhưng vô cùng chu đáo của cha. Chúng con ước nguyện cho sự tôn sùng cha được mở rộng khơi sâu, để Thiên Chúa được hiển vinh, các linh hồn được hạnh phúc. Chớ gì những ai kính mến Chúa Giêsu và Mẹ thánh Ngài, thì cũng biết tôn sùng cha nữa.

Lại nữa, lạy Thánh Cả Giuse vinh hiển, nếu đẹp lòng Chúa và ích lợi cho linh hồn chúng con, xin ban cho chúng con ơn riêng chúng con kêu cầu cùng Thánh Cả trong tuần Cửu Nhật này. Lại xin cho chúng con trung thành với bổn phận, và sau này đạt tới phúc trường sinh. Amen.

Ngày Thứ Chín
(Một người đọc)

Ta hãy suy: Về những ơn ích do lòng sùng kính thánh Giuse.

Nói về ơn ích vô vàn, vô số, phần xác, phần hồn do sự cầu bầu của Thánh Cả từ xưa đến nay, tưởng không gì bằng nại đến kinh nghiệm sống của các thánh.

Thánh Têrêsa Avila đáng kể vào hàng đệ nhất tông đồ của Thánh Cả, không phải bằng lời giảng mà bằng kinh nghiệm và hành động. Lập được 17 Đan viện Cát Minh, bà đã dâng kính Thánh Cả 13 nhà. Trong tác phẩm của bà, bà đều nói đến những ơn lạ Thánh Cả đã xin cùng Chúa cho bà và tu hội.

Bà viết: “Tôi không lần nào xin sự gì cùng Thánh Cả mà không được. Dường như Thiên Chúa ban cho các thánh giúp ta việc này việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết, Thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Những ai không tin lời tôi, hãy thử mà xem”.

Mẹ đáng kính Maria Agreda trong tác phẩm thời danh của bà nhan đề: “Thành trì Thiên chúa”, đã chép những dòng sau đây: “Sự cầu bầu của Thánh Cả Giuse thực là mạnh thế, để giúp ta giữ được trong sạch, gỡ mình khỏi tội lỗi, thêm lòng kính mến Đức Mẹ, được ơn chết lành, khỏi quỷ ma cám dỗ, được sức khoẻ phần xác cùng sự cứu trợ trong mọi hoàn cảnh khó khăn.”

   Lời cầu nguyện (Cộng đoàn)

Lạy Thánh Giuse nhân từ, chúng con tin tưởng, vâng, chúng con tin tưởng cha có thể chấp nhận lời nguyện của chúng con, và giải thoát chúng con khỏi những khổ cực ưu sầu mà chúng con đang gặp phải. Hơn nữa, chúng con vững lòng trông cậy, Cha không bỏ qua điều gì giúp ích cho những người sầu khổ kêu cầu cha. Chúng con sấp mình dưới chân cha, tha thiết nài xin cha đoái thương đến những than van khóc lóc của chúng con. Xin cha lấy tình thương như áo choàng che phủ chúng con, và chúc lành cho chúng con.

Lại nữa, lạy Thánh Cả Giuse vinh hiển, nếu đẹp lòng Chúa và ích lợi cho linh hồn chúng con, xin ban cho chúng con ơn riêng chúng con kêu cầu cùng Thánh Cả trong tuần Cửu Nhật này. Lại xin cho chúng con trung thành với bổn phận, và sau này đạt tới phúc trường sinh. Amen.

III.  Lạy Cha – Kính Mừng – Sáng Danh (đọc)

IV.  Kinh Cầu Thánh Giuse

(ĐGH Piô X phê chuẩn ngày 18-03-1909)

Xin Chúa thương xót chúng con.
Xin Chúa thương xót chúng con.
Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Xin Chúa thương xót chúng con.
Xin Chúa thương xót chúng con.
Chúa Kitô nghe cho chúng con,
Chúa Kitô nhậm lời chúng con.

Đức Chúa Cha ngự trên trời là ĐCT thật
(Thương xót chúng con)

Đức Chúa Con chuộc tội cứu thế là ĐCT thật,

Đức Chúa Thánh Thần là ĐCT thật,

Ba Ngôi cũng là một ĐCT.

Rất Thánh Đức Bà Maria
(Cầu cho chúng con)

Ông Thánh Giuse.

Ông Thánh Giuse là Đấng sang trọng bởi dòng Đavít.

Ông Thánh Giuse là sự sáng các thánh tổ tông.

Ông Thánh Giuse là Bạn Đức Mẹ Chúa Trời.

Ông Thánh Giuse là Đấng thanh sạch giữ gìn Đức Nữ Đồng Trinh.

Ông Thánh Giuse là Đấng dưỡng nuôi con Đức Chúa Trời.

Ông Thánh Giuse là Đấng ân cần gìn giữ Chúa Kitô.

Ông Thánh Giuse là Đấng cai quản Thánh Gia xưa.

Ông Thánh Giuse Gồm no mọi nhân đức.

Ông Thánh Giuse Cực thanh cực tịnh.

Ông Thánh Giuse Cực khôn cực ngoan.

Ông Thánh Giuse Vững vàng mạnh mẽ.

Ông Thánh Giuse Chịu luỵ mọi đàng.

Ông Thánh Giuse Rất trung tín thật thà.

Ông Thánh Giuse là Gương nhân đức nhịn nhục.

Ông Thánh Giuse Yêu chuộng sự khó khăn.

Ông Thánh Giuse Làm cho sáng danh gia đạo.

Ông Thánh Giuse Nâng đỡ kẻ giữ mình đồng trinh.

Ông Thánh Giuse An ủi kẻ mắc gian nan.

Ông Thánh Giuse Là bổn mạng kẻ mong sinh thì.

Ông Thánh Giuse Làm cho quỉ thần kinh khiếp.

Ông Thánh Giuse làm Quan thầy bào chữa Giáo hội.

Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.

Chúa tha tội chúng con.

Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.

Chúa nhậm lời chúng con.

Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.

Chúa thương xót chúng con.

  • Chúa đã đặt Ông Thánh Giuse làm chủ nhà Chúa

  • Cùng quản cai gia nghiệp Chúa.

Lời nguyện:

Lạy Đức Chúa Giêsu là Chúa chúng con, Chúa đã khấng toan liệu cách khôn ngoan lưỡi khen chẳng xiết, mà chọn ông Thánh Giuse làm bạn Đức Mẹ thân sinh Chúa. Xin khấng ban cho chúng con như đã tôn kính ông Thánh Giuse làm quan thầy bào chữa dưới đất, thì cũng được nhờ Ngài cầu thay nguyện giúp trên trời. Vì Chúa là Đấng hằng sống hằng trị đời đời. Amen.

Chủ Đề 2
TUẦN CHÍN NGÀY CHUẨN BỊ – MỪNG LỄ THÁNH CẢ GIUSE

(Có thể dùng lúc khác trong tháng 3 hoặc quanh năm)

Bản Kinh Tuần Chín Ngày sau đây do Chúa Giêsu ban qua thụ khải Madeleine Aumont tại Dozulé (gần Lisieux – Pháp), nơi Chúa hiện ra 49 lần từ 1972 đến 1982, kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện đời sống để đón Chúa quang lâm.

Madeleine Aumont sinh ngày 27-10-1924 tại Putot-en-Auge (Calvados , Pháp). Khi cha chết, bà đưa mẹ và 5 người con về Dozulé ngày 03-08-1968 và chết ở đó ngày 27-01-2016[29].

 Những lần Chúa Giêsu hiện ra đã nói về Cây Thập Giá vinh quang và nói đến sứ điệp sám hối. Bà đã được ơn sám hối vài ngày trước lễ Phục Sinh năm 1970: Mình Thánh Chúa đã thay đổi bà hoàn toàn.

Có lần Chúa hiện ra và ngỏ lời với bà về việc sùng kính thánh Giuse[30]:

 “Con hãy mời gọi mọi người chuẩn bị mừng lễ Thánh Cả Giuse, là cha ‘như thức’ (Père putatif, coi như chính thức) của Ta, bằng một Tuần Cửu nhật sốt sắng, để Ngài ban ơn phù hộ cho các con, như các con đang cần đến. Đây Ta chỉ cách cho các con:

 Ngày 10 tháng 3 (hoặc: ngày thứ nhất trong tuần 9 ngày)

 Ngày thứ nhất, các con hãy nhớ lại sự tùng phục toàn vẹn của ngài đối với Ý muốn của Thiên Chúa, và các con hãy lấy tinh thần ĐỨC TIN đích thực mà đọc lại lời nguyện: “Lạy Chúa! Xin cho Ý Chúa nên trọn!”. Các con hãy xin Thánh Cả Giuse giúp các con đọc lời nguyện này tối đa, cho tất cả mọi người trên thế giới, và cầu nguyện cho họ ngoan thảo vâng theo Ý Chúa.

Lạy Cha – 10 Kính mừng – Sáng Danh

 Ngày 11 tháng 3 (ngày thứ hai)

Ngày thứ hai, các con hãy nhớ ngài yêu việc làm như thế nào, khiến ngài đã trở thành gương mẫu mọi người lao động. Các con hãy cầu nguyện với ngài cho họ, để họ không bỏ phí những nhọc mệt của việc làm chân tay hay trí óc, nhưng hãy dâng hết lên Chúa Cha, là biến đổi những công sức ấy thành tiền quý giá, nhờ đó họ sẽ xứng đáng được phần thưởng muôn đời.

Lạy Cha – 10 Kính mừng – Sáng Danh

 Ngày 12 tháng 3 (ngày thứ ba)

Ngày thứ ba, các con hãy nhớ lại sự bình thản của ngài, những khi gặp khó khăn trên đường đời.

Các con hãy cầu nguyện với ngài cho tất cả những ai buồn phiền chán nản khi gặp khó khăn. Xin cho họ được sức mạnh cần thiết và niềm vui trong đau khổ.

Lạy Cha – 10 Kính mừng – Sáng Danh

 Ngày 13 tháng 3 (ngày thứ bốn)

Ngày thứ bốn, các con hãy nhớ đến sự thinh lặng của ngài theo lòng ngài ước muốn, nhờ đó, ngài đã được nghe tiếng Thiên Chúa nói với ngài để hướng dẫn ngài mọi lúc mọi nơi.

Các con hãy cố giữ phần nào sự im lặng nội tâm, và nhờ ngài cầu bầu để có được nhân đức tốt đẹp đó, là nhân đức biết im lặng và lắng nghe.

Lạy Cha – 10 Kính mừng – Sáng danh

 Ngày 14 tháng 3 (ngày thứ năm)

Ngày thứ năm, các con hãy suy gẫm Thánh Giuse giữ đức khiết tịnh lớn lao dường nào, và hoàn hảo biết bao, bằng cách dâng lên Thiên Chúa mỗi tình cảm, mỗi ý nghĩ và mỗi việc làm của ngài, lại giữ gìn thân xác và con tim không chút tì ố.

Các con hãy cầu nguyện với ngài cho giới trẻ, họ thường bị thúc đẩy bởi ý muốn kết hôn, mà bỏ quên lề luật Thiên Chúa, nhất là Điều Răn thứ sáu.

Lạy Cha – 10 Kính mừng – Sáng Danh

 Ngày 15 tháng 3 ( ngày thứ sáu)

Ngày thứ sáu, các con hãy suy niệm đức khiêm nhường của Thánh Giuse lớn lao dường nào trước Thiên Chúa, trước tha nhân và đối với chính mình. Mặc dù thuộc dòng hoàng tộc, ngài chỉ muốn coi mình như một người thợ tầm thường. Ngài không đòi hỏi gì cho riêng mình: không tiền bạc, không danh vọng, chỉ sung sướng được hy sinh cho hai Đấng cao cả nhất mà Chúa đã trao phó cho ngài.

Các con hãy cầu nguyện cho những người cha gia đình, để họ biết theo gương ngài trong việc điều khiển gia đình là nền tảng xã hội, đang cần được lành mạnh hóa.

Lạy Cha – 10 Kính mừng – Sáng Danh

 Ngày 16 tháng 3 (ngày thứ bảy)

Ngày thứ bảy, các con hãy nhớ lại lòng yêu mến dịu dàng của ngài đối với hiền thê ngài mà ngài cùng chia sẻ vui buồn trong cuộc sống, và ngài xin trọng vọng tôn kính như là Mẹ Thiên Chúa. Ngài có nhiệm vụ bảo vệ đức Trinh Khiết của Đức Maria, ngài đã thực hiện nhiệm vụ đó cách hoàn hảo và trung tín.

Các con hãy cầu nguyện cho tất cả các đôi vợ chồng, để họ luôn luôn trung thành giữ các cam kết của họ trong bậc hôn nhân, và để họ có thể chu toàn sứ mệnh của họ trong sự thông cảm và nâng đỡ lẫn nhau.

Lạy Cha – 10 Kính mừng – Sáng Danh

 Ngày 17 tháng 3 (ngày thứ tám)

Ngày thứ tám, các con hãy nhớ lại hạnh phúc Thánh Giuse lớn lao dường nào khi ngài được ẵm bồng Chúa Hài Nhi Giêsu trong tay. Hai Cha Con cùng trao đổi cho nhau những tình cảm thân thương và mật thiết.

Các con hãy cầu nguyện để giữa cha mẹ và con cái luôn luôn có sự cảm thông ưu ái và chân thành, làm cho họ thành những cha mẹ hiền từ và những con cái hiếu thảo.

Lạy Cha – 10 Kính mừng – Sáng Danh

 Ngày 18 tháng 3 (ngày thứ chín)

Ngày thứ chín, các con suy nghĩ về cái chết thánh thiện của Thánh Giuse trong vòng tay của Ta và Đức Maria, và các con hãy cầu nguyện với ngài cho tất cả những người lâm chung, và cho chính các con được bình an, êm dịu lúc từ trần như Thánh Giuse.

Lạy Cha – 10 Kính mừng – Sáng Danh

 Ngày 19 tháng 3 (Lễ Thánh Cả Giuse hay là ngày kết thúc tuần 9 ngày)

Trong ngày Lễ Thánh Cả Giuse, các con hãy đem trọn lòng tin tưởng chạy đến với Ngài là Phó Vương Dân Chúa, giống như tổ phụ Giuse ở Ai Cập xưa kia và các con hãy gởi gắm nơi Ngài toàn thể Giáo hội.

Lạy Cha – 10 Kính mừng – Sáng Danh

(Trích sách: Jésus est apparu à Dozulé. Journal d’un Témoin. Suzanne Avoyne

(Chúa Giêsu hiện ra tại Dozulé. Nhật ký của một nhân chứng. Suzanne Avoyne).

(Corlet Imprimeur, Agence de Caen, Septembre 2000. Trang 53-55.)

Chủ Đề 3
BẢY SỰ ĐAU ĐỚN VÀ VUI MỪNG THÁNH GIUSE

Có lẽ cũng vì lòng tôn kính thánh Giuse mà nhiều nhà tu đức suy gẫm: “Thất sự – Bảy sự” đau đớn và vui mừng thánh Giuse, tương ứng với Đức Mẹ Bảy sự.

“Bảy sự” thánh Giuse ở đây là 7 điểm suy niệm về 7 sự thánh Giuse liên quan đến Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mỗi chủ đề gẫm đều nói lên hai mặt tương phản: đau buồn trước, vui mừng sau.

Trong tập Những bài suy niệm – Năm đặc biệt bề thánh Giuse, chúng tôi lấy lại Tuần Cửu Nhật Kính Thánh Giuse phỏng theo “Cửu nhật kinh nguyện” của Dòng Cát Minh Sài Gòn.

Chúng tôi có trong tay Ngắm Bảy Sự Vui Buồn Thánh Giuse của cha F. Bích, Saigon 1915; Đức cha Hồ Ngọc Cẩn, Huế 1925; Bản văn của Địa phận Thái Bình. Nhưng ở đây, để khỏi “lùm xùm dài dòng”, chúng tôi chọn bản văn theo TGP Hà Nội của cố P. Lương, năm1981.

Suy niệm về sự buồn sự vui của thánh Giuse, chúng ta cứ suy về vui – buồn của chính mình. “Vui – buồn” tứ dung hướng hợp trong văn hóa Việt Nam (# Cao – thấp; trời – đất; sướng – khổ; ngày – đêm; sáng – chiều;…). Có thể nói thất tình của con người (hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục) hay cả cuộc đời cũng chỉ đan xen giữa vui và buồn.

Nên tổ chức cho giáo dân đọc vào ngày thứ Tư (Kính thánh Giuse) hoặc cá nhân có thể dùng một chủ đề làm 30 phút suy niệm theo ngày… miễn là dẫn chúng ta đến với Thánh Cả và xin Thánh Cả an ủi chúng ta, nhất là trước những thử thách.

BẢY SỰ ĐAU ĐỚN VÀ VUI MỪNG THÁNH GIUSE
Theo kinh Gp. Nội[31]

1.      Thánh Giuse thấy Đức Bà có thai

Thứ 1. Ngắm khi ông Thánh Giuse thấy Đức Bà có thai, mà chẳng hiểu sự ấy làm sao, thì lấy làm đau đớn khốn cực lắm. Nhưng mà khi thánh Thiên thần hiện đến bảo cho Ngài biết Đức Bà có thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Con Đức Bà sinh ra là Chúa Cứu Thế ra đời chuộc tội thiên hạ, thì Ông Thánh Giuse lấy làm yên ủi vui mừng biết là dường nào.

Khi ngắm bấy nhiêu sự, thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh, xin Ông Thánh Giuse vì đau đớn cùng sự vui mừng ấy, yên ủi chúng con trong mọi sự khốn khó đời này. Amen.

2.     Thánh Giuse đem Chúa Giêsu vào hang đá

Thứ 2. Ngắm khi Đức Bà ở thành Belem đã đến ngày sinh mà ông thánh Giuse chẳng tìm được nhà trọ, phải đem Đức Bà vào hang đá, ở làm một với bò lừa, thì lấy làm buồn bã khốn cực lắm; nhưng mà khi Ngài nghe tiếng các thánh thiên thần bởi trời mà xuống hát mừng Chúa Cứu thế ra đời, thì vui mừng biết là dường nào.

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, một kinh Sáng danh, xin ông thánh Giuse vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, mà cầu bầu cho chúng con được chê bỏ của cải, cùng sự sang trọng thế gian và mến sự khó khăn cùng sự khiêm nhường. Amen.

3.     Thánh Giuse thấy Chúa Giêsu chịu cắt bì

Thứ 3. Ngắm khi đức Chúa Giêsu chịu phép cắt bì, mà ông thánh Giuse thấy máu Đức Chúa Giêsu chảy ra, thì thảm thiết thương xót Đức Chúa Giêsu lắm lắm, nhưng mà khi Ngài đặt tên Giêsu cho con trẻ, cùng suy tên ấy êm ái dịu dàng cực cao cực trọng, phép tắc vô cùng, thì lấy làm vui mừng là dường nào.

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh, xin ông thánh Giuse, vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, mà cho chúng con được lòng sốt sắng cung kính mà kêu tên cực trọng Đức Chúa Giêsu khi sống và lúc sinh thì. Amen.

4.    Thánh Giuse nghe ông Simeon nói tiên tri

Thứ 4. Ngắm khi ông thánh Giuse đem Đức Chúa Giêsu vào đền thờ, mà thấy ông thánh Simêong nói tiên tri những sự thương khó Đức Chúa Giêsu sẽ phải ngày sau, thì lấy làm đau đớn như phải dao sắc thâu qua lòng vậy; nhưng mà khi thấy ông thánh Simêong lại nói rằng: Có nhiều kẻ sẽ được rỗi linh hồn bởi công nghiệp Đức Chúa Giêsu mà ra thì Ngài lấy làm vui mừng kể chẳng xiết.

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh, xin ông thánh Giuse vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, mà cầu bầu cho chúng con được rỗi linh hồn vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu . Amen.

5.     Thánh Giuse đem Chúa Giêsu trốn qua Ai cập

Thứ 5. Ngắm khi ông thánh Giuse thấy Đức Chúa Giêsu là Chúa trời đất muôn vật, phải trốn đi khách đày trong nước Ai Cập, cùng chịu khó khăn thiếu thốn và khó nhọc vất vả liên, thì đau đớn thương xót Đức Chúa Giêsu lắm; nhưng mà Ngài hằng vốn vui vẻ tươi tỉnh, vì hằng ở làm một cùng Đức Chúa Giêsu liên chẳng lìa ra khỏi Đức Chúa Giêsu bao giờ.

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh, xin Ông thánh Giuse vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, cho chúng con được làm mọi việc chúng con vì Đức Chúa Giêsu và được giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu liên. Amen.

6.    Thánh Giuse đem Chúa Giêsu về Nagiaret

Thứ 6. Ngắm khi ông thánh Giuse đem Đức Chúa Giêsu ở nước Ai Cập về thành Nazaret mà nghe tin con vua Hêrôđê nối quyền cha mình mà trị nước Do Thái, thì lấy làm đau đớn sợ hãi lắm; nhưng mà khi thấy thánh thiên thần bảo mình đừng sợ hãi, một cứ đem Đức Chúa Giêsu cùng Đức Bà về, thì Ngài lấy làm vui mừng lắm, cùng vâng lời thánh thiên thần ngay.

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh, xin Ông thánh Giuse vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, mà bầu cử cho chúng con khỏi giặc giã, ôn dịch, thần khí, được bằng yên cùng yên lòng yên trí mà giữ đạo thánh Đức Chúa Trời liên. Amen.

7.     Thánh Giuse xa Chúa Giêsu ba ngày

Thứ 7. Ngắm khi ông thánh Giuse lạc mất Đức Chúa Giêsu ba ngày, thì lo buồn đau đớn biết là dường nào; nhưng mà khỏi ba ngày, khi lại tìm thấy Đức Chúa Giêsu trong đền thờ, thì biết ngài vui mừng là chừng nào.

Khi ngắm bấy nhiêu sự thì nguyện một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh, xin Ông thánh Giuse vì sự đau đớn cùng sự vui mừng ấy, mà bầu cử cho chúng con đừng có phạm tội trọng lạc mất Đức Chúa Giêsu bao giờ. Amen.

Chủ Đề 4
CHUỖI MÔI KHÔI THÁNH GIUSE

Như đã nói trên, Tuần Cửu nhật kính thánh Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu là lòng đạo đức mà nhiều tín hữu Công giáo đã và đang thực hành.

Như chúng ta đã biết, các tác phẩm liên quan đến đức tin và luân lý (mạc khải tư, các lòng sùng kính…), khi có chữ Imprimatur là đã được Đấng Bản Quyền Giáo hội Địa phương phê chuẩn: không có gì đối nghịch với đức tin công giáo; không có tính bó buộc “phải đọc”, nhưng cũng không “cấm đọc”.[32]

Trong bài chia sẻ này, chúng tôi muốn ghi lại (1) Thánh Cả Giuse hiện ra ở Brazil đã được công nhận (2) Chuỗi môi khôi thánh Giuse.

1.   Thánh Giuse hiện ra ở Brazil[33]

Có nhiều người biết về các sự kiện hiện ra của Rất Thánh Đức Bà đã được công nhận. Nhưng chỉ có một số ít người được biết về Thánh Cả Giuse đã hiện ra nhiều lần cùng với Đức Bà Maria và Chúa Giêsu ở Itapiranga, Brazil từ năm 1994-1998.

Vào Tháng Giêng năm 2010, sau nhiều nghiên cứu, cầu nguyện, suy tư, quan sát và nhận thấy sự tăng trưởng trong đời sống đức tin của hàng ngàn tín hữu, Đức Giám mục địa phương Carillo Gritti đã tuyên bố một Sắc lệnh Thờ phượng (Decree of Worship) công nhận các sự kiện hiện ra ở Itapiranga, mà trong một văn kiện trước đó cho là “có nguồn gốc siêu nhiên”.

Xin lược sơ một chút gốc gác/bối cảnh đầu tiên. Vào năm 1994, khi ấy có một sinh viên ở Manaus, Brazil, 22 tuổi, tên là Edson Glauber, được Rất Thánh Đức Bà cùng với Chúa Giêsu và Thánh Giuse hiện ra.  Những sự hiện ra ấy vẫn tiếp tục xảy ra khi anh trở về ngôi làng của mình ở Itapiranga, cách Sao Paulo khoảng 650 dặm tây nam và cách Rio de Janeiro khoảng 880 dặm đường.  Cộng thêm 770 dặm tây nam ở chỗ khác, cũng có những sự kiện hiện ra đã được công nhận ở San Nicolas, Argentina (thành phố mang tên Thánh Nicolas ở  Argentina).

Bà Maria do Carmo, mẹ của Edson cũng được các Đấng hiện ra mấy lần. Đức Tổng Carillo Gritti, người qua đời cách đây 5 năm (12/5/1942- 9/6/2016), đã gặp gỡ họ nhiều lần. Ngài công khai cử hành Thánh Lễ ngay tại nơi các Đấng hiện ra và trợ giúp cho việc xây cất điện thờ ở đó.

Đức Maria đã hiện ra dưới tước hiệu “Nữ Vương Môi Khôi Hòa Bình.” Rất giống ở Fatima, Thông điệp của Mẹ nhấn mạnh đến việc cần phải hoán cải, nguyện Kinh Môi Khôi, Dâng Lễ, Xưng tội, và Rước Lễ cùng ăn năn sám hối để cứu thế giới khỏi sa lầy trong vũng bùn vô tín và tội lỗi. Đức Mẹ và Chúa Giêsu cũng thúc giục hãy biệt kính Rất Thánh Khiết Tâm Thánh Giuse  (Saint Joseph’s Most Chaste Heart).

Chẳng hạn các lời hứa được mạc khải sau đây

  • Lời hứa thứ nhất:

Sự mạc khải của Thánh Cả Giuse khởi đầu ngày 1 Tháng Ba, 1998. Ngài đã tỏ cho biết về sự sùng kính Khiết tâm ngài và một số những lời hứa đầu tiên. Ngài nói:

“Con ơi, Chúa là Thiên Chúa chúng ta đã sai cha đến bảo cho con biết về mọi ân sủng mà các tín hữu sẽ lãnh nhận được từ Rất Thánh Khiết Tâm cha mà Chúa Giêsu và bạn rất thánh của cha mong ước cho Trái Tim cha được tôn kính…  Qua sự sùng kính Khiết Tâm cha, nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi khỏi tay quỷ dữ.  Chúa là Thiên Chúa chúng ta đã cho phép cha tỏ ra cho con biết những lời hứa về sự sùng kính Trái Tim cha.”

“Cũng như cha là đấng công chính trước thiên nhan Chúa, tất cả những ai sùng kính Trái Tim cha cũng sẽ được nên công chính, thanh sạch, và thánh thiện trước thiên nhan Ngài. Cha sẽ đổ đầy rẫy trong con những ân sủng và nhân đức, để làm cho con lớn lên mỗi ngày trên đường thánh thiện.”

  • Lời hứa thứ hai (Nói đến việc ngài cầu bầu)

  • Lời cảnh báo (Về tội lỗi đang hoành hành)

  • Niềm trong cậy cho kẻ có tội (người yêu mến Thánh Cả được ơn sám hối)

  • Tội lỗi: Những hậu quả & sự bảo vệ của thánh Giuse

  • Yêu cầu các ngày Thứ Tư đầu tháng & Lời Hứa

Ngày Thứ Tư đầu tháng của Tháng Ba năm 1998, ngài đặc biệt có một yêu cầu.  Ngài đã ban cho chúng ta một sự sùng kính đi song đôi với việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu vào  các ngày Thứ Sáu đầu tháng và kính Khiết Tâm Mẹ Maria vào  các ngày Thứ Bảy đầu tháng. Ngài nói:

“Vào mỗi thứ Tư đầu tháng, Khiết Tâm cha sẽ trào đổ muôn vàn ơn phúc cho tất cả những ai tin cậy vào sự cầu bầu của cha. Vào các ngày Thứ Tư đầu tháng, các ơn họ nhận được không phải là những ơn tầm thường, nhưng mạnh hơn cả thác lũ trong hàng khối ơn phi thường!  Cha sẽ cùng họ thông phần với những ai tôn kính và tin cậy cha, tất cả mọi sự chúc phúc, mọi nhân đức và trọn cả tình thương cha được hưởng từ Chúa Giêsu Con Chí Thánh của cha, và từ Bạn đời Rất Thánh của cha là Đức Trinh Nữ Maria trong lúc còn sống nơi dương thế này, và tất cả mọi ơn mà cha vẫn liên tiếp được thừa hưởng trên nơi vinh phúc.”

Hiền Thê Chuẩn Nhận

Chính Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria đã đoan hứa vào những lần hiện ra cuối cùng của phu quân Mẹ.

“Tất cả những ai tôn kính Rất Thánh Khiết Tâm Thánh Giuse sẽ được hưởng kiến Mẹ trong suốt đời họ một cách đặc biệt.”

Phần thưởng dành cho việc phổ biến sự Sùng Kính Thánh Giuse

“Tất cả những ai truyền bá sự sùng kính Trái Tim cha, và yêu mến thực hành việc sùng kính ấy, thì chắc chắn sẽ có tên của họ được khắc trong Trái Tim cha tựa như thánh giá Chúa Giêsu Con cha và danh hiệu ‘M’ của Đức Maria đã được khắc trong đó.”

 Sau hết, “Tất cả những việc truyền bá sự sùng kính Trái Tim cha, ấy là do Chính Thiên Chúa yêu cầu.”

4.   Kinh kính mừng thánh Giuse

Để kết thành chuỗi môi khôi thánh Giuse, dựa vào bản văn tiếng Pháp, chúng tôi dịch sang tiếng Việt. Thật trùng hợp, lại có bản dịch của ĐHY G.B Phạm Minh Mẫn, xin đối chiếu.

a. Lời kinh nguyên bản tiếng Pháp[34]

“Je vous salue Joseph, vous que la grâce divine a comblé. Vous êtes béni entre tous les hommes, et Jésus, l’Enfant de votre virginale épouse est béni.

Saint Joseph donné pour Père au Fils de Dieu, priez pour nous dans nos soucis de famille, de santé et de travail et daignez nous secourir à l’heure de notre mort.

Ainsi-soit-il.”

b.      Bản dịch

Kính mừng Giuse, đầy ơn Chúa, Ngài thật diễm phúc hơn hết mọi người nam, và Giêsu Con Chí Thánh của bạn thanh khiết Ngài thật diễm phúc.

Thánh Giuse, Cha nuôi Con Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con trong những nỗi lo về gia đình, sức khỏe và công việc, và xin thương phù giúp chúng con trong giờ lâm tử. Amen.

c.      Bản dịch của ĐHY G.B. Phạm Minh Mẫn

Kính mừng Giuse, đầy ơn Chúa, Đấng Cứu Thế được Ngài âu yếm dưỡng nuôi, và tận tình chăm nom săn sóc. Ngài thật diễm phúc hơn hết mọi người nam, và Giêsu Con Chí Thánh của bạn thanh khiết Ngài thật diễm phúc.

Thánh Giuse, Cha nuôi Con Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con trong những lo âu hồn xác hiện nay, và xin thương phù giúp chúng con trong giờ lâm tử. Amen.

Imprim potesti
J.B Trần Đức Huyên
Cens.Deputatus
Imprimatur
ĐHY G.B. Phạm Minh Mẫn
Tgm TGP Saigon, ngày 27-1-2000

5.   Chuỗi môi khôi thánh Giuse

Chúng tôi cũng xin ghi lại bản dịch của Sóng Biển như một tài liệu tham khảo hoặc để các bạn tùy nghi sử dụng.


THE JOSEPHIAN ROSARY – St. Joseph Rosary

Thánh Giuse Môi Khôi Kinh[35]

(nguyện mỗi thứ Tư đầu tháng, Thứ Tư hàng tuần hoặc hằng ngày)

Dùng xâu chuỗi Môi Khôi 50 kinh để lần hạt,  y hệt như khi nguyện Kinh Môi Khôi Maria.

Mở đầu:

  1. Nguyện 1 Kinh Tin Kính

  2. Nguyện 1 Kinh Lạy Cha

  3. Nguyện 3 Kinh Kính Mừng Giuse

  4. Nguyện 1 Kinh Sáng Danh

Cứ sau mỗi một màu nhiệm nguyện 1 Kinh Lạy Cha, rồi 10 kinh Kính Mừng Giuse và 1 kinh Sáng Danh, và “Câu  than Fatima .”

* Kết Thúc Chuỗi hạt 50 kinh nguyện: “Kinh Dâng Mình cho Ba Thánh Tâm”, “Kinh Cầu Thánh Giuse và Đức Mẹ cho được ơn thanh sạch”, và kinh “Tổng Lãnh Thiên Thần Micae”. 

Năm Sự Vui Mừng Thánh Cả Giuse

Thứ Nhất thì ngắm . Thiên Thần truyền tin cho Thánh Cả Giuse trong giấc mơ, Đức Bà thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần.  Xin cho con được ở khiêm nhường.

Nguyện 1 Lạy Cha …, 10 Kính Mừng Giuse …, 1 Kinh Sáng Danh …, Câu  than Fatima …

Ngắm Thứ Hai.  Thánh cả Giuse tỉnh giấc, vội vã rước Đức Bà về nhà.  Xin cho con được lòng yêu người.

Nguyện 1 Lạy Cha …, 10 Kính Mừng Giuse …, 1 Kinh Sáng Danh …, Câu  than Fatima …

Ngắm Thứ Ba.  Thánh Cả Giuse đưa Đức Bà đến sinh Chúa Giêsu nơi hang đá. Xin cho con được lòng khó khăn.

Nguyện 1 Lạy Cha …, 10 Kính Mừng Giuse …, 1 Kinh Sáng Danh …, Câu  than Fatima …

Ngắm Thứ Bốn.  Thánh Cả Giuse cùng Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh.  Xin cho con được vâng lời chịu lụy.

Nguyện 1 Lạy Cha …, 10 Kính Mừng Giuse …, 1 Kinh Sáng Danh …, Câu  than Fatima …

Ngắm Thứ Năm.  Thánh Cả Giuse cùng Đức Bà tìm được Chúa Giêsu Trong đền thánh.  Xin cho con được giữ nghĩa cùng Chúa luôn.

Nguyện 1 Lạy Cha …, 10 Kính Mừng Giuse …, 1 Kinh Sáng Danh …, Câu  than Fatima …

Năm Sự Thương Thánh Cả Giuse

Thứ Nhất thì ngắm.  Thiên Thần báo mộng cho Thánh Cả Giuse rằng, Vua Hêrôđê đang tìm giết Chúa Giêsu.  Xin cho con được ơn thức tỉnh tâm hồn.

Nguyện 1 Lạy Cha …, 10 Kính Mừng Giuse …, 1 Kinh Sáng Danh …, Câu  than Fatima …

Ngắm Thứ Hai.  Thánh Cả Giuse đang đêm liền dắt Mẹ Con Đức Bà Maria trốn sang Ai-cập.  Xin cho con được ơn mau mắn vâng nghe những soi động nội tâm.

Nguyện 1 Lạy Cha …, 10 Kính Mừng Giuse …, 1 Kinh Sáng Danh …, Câu  than Fatima …

Ngắm Thứ Ba.  Thánh Cả Giuse dắt Mẹ Con Đức Bà Maria trở về làng Nazaréth.  Xin cho con được ơn bình tâm nhận định Ý Chúa.

Nguyện 1 Lạy Cha …, 10 Kính Mừng Giuse …, 1 Kinh Sáng Danh …, Câu  than Fatima …

Ngắm Thứ Bốn.  Thánh Cả Giuse cùng Đức Bà lạc mất Chúa Giêsu trong đền Thánh.  Xin cho con được ơn vượt qua thử thách khốn cùng.

Nguyện 1 Lạy Cha …, 10 Kính Mừng Giuse …, 1 Kinh Sáng Danh …, Câu  than Fatima …

Ngắm Thứ Năm.  Thánh cả Giuse cùng Đức Bà dưỡng nuôi Chúa Giêsu.  Xin cho con được bền đỗ trong ơn thánh Chúa.

Nguyện 1 Lạy Cha …, 10 Kính Mừng Giuse …, 1 Kinh Sáng Danh …, Câu  than Fatima …

(Chọn một trong những bản kinh “Kính Mừng Giuse”.)

Kinh Kính Mừng Giuse – Hail Joseph

(Kinh nguyện được mạc khải cho anh Edson Glauber de Souza Coutinho, Brazil)

Kính mừng Giuse, con vua Đavít, là đấng công chính và thanh sạch, Đấng Khôn Ngoan ở cùng cha; cha có phúc lạ hơn mọi người nam,  và Giêsu, con lòng bà Maria, bạn trung tín cha, gồm phúc lạ.  Thánh Giuse, cha nuôi kính yêu và là đấng bảo hộ Chúa Giêsu Kitô cùng giáo hội, cầu cho chúng con là kẻ có tội, và xin cho chúng con được hưởng ơn khôn ngoan thần thiêng của Chúa, bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen.

Hoặc các bản đã nêu ở phần trên.
Cầu chúc các bạn thêm lòng tôn kính và được Thánh Cả Giuse phù hộ.

Chủ Đề 5
VÀI CHỨNG TÍCH[36]

1. Thánh nữ Têrêsa Avila:

Tự truyện: “Thấy mình còn trẻ mà bị bất toại, lại thấy tình trạng đáng buồn do các y sĩ trần gian đưa đẩy tôi vào, tôi quyết định chạy đến cùng các y sĩ trên trời để được khỏi bệnh … Tôi nhận Thánh Giuse vinh hiển làm Đấng bàu chữa và bảo hộ tôi. Tôi cậy nhờ Ngài cách rất thiết tha. Ơn cứu giúp của Ngài nổi bật nhãn tiền. Đấng bảo hộ và cha hiền của linh hồn tôi đã cứu tôi khỏi bệnh tật suy tàn về thân xác, cũng như Ngài đã giải thoát tôi khỏi những hiểm nguy trầm trọng hơn về mặt khác, có thể làm hại hạnh phúc đời đời của tôi. Tôi nhớ rõ, chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng Thánh Cả Giuse mà không được như ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu bàu của Vị Thánh vinh phúc này”.

“Dường như Đấng Tối Cao ban ơn cho các thánh giúp chúng ta việc này việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thì Thánh Giuse vinh hiển có quyền năng rộng rãi giúp chúng ta trong mọi việc. Như thế là Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng, như xưa Chúa đã vâng phục Thánh Cả dưới thế, đã nhìn nhận Ngài với quyền làm cha và làm giám quản, thì nay ở trên trời, Chúa cũng sẵn lòng chiều theo ý muốn của Ngài, mà nhận mọi lời Ngài cầu xin. Những người khác mà tôi khuyên chạy đến cùng Vị Bảo Hộ này, cũng nhận thấy điều ấy như tôi, do kinh nghiệm. Vậy nên số các linh hồn sùng kính Thánh Cả Giuse ngày càng gia tăng, và những hiệu quả tốt lành do sự chuyển cầu của Thánh Cả ngày càng xác nhận lời tôi nói là sự thật …”

“Qua kinh nghiệm lâu dài như vậy, ngày nay được biết rõ uy thế rất lạ lùng của Thánh Giuse trước toà Thiên Chúa, tôi muốn thuyết phục mọi người tôn kính sùng mộ Thánh Cả Giuse cách đặc biệt. Vậy tôi chỉ còn biết, vì lòng mến Chúa, nài xin những ai không tin lời tôi, hãy thử mà cậy nhờ, cầu khẩn Thánh Tổ Phụ Giuse vinh hiển và nhiệt thành tôn sùng kính mến Ngài, là điều ơn ích dường nào!

Ai không tìm được thầy dạy dỗ cách nguyện ngắm, xin hãy chọn Vị Thánh Cả tuyệt diệu này làm thầy ; và dưới sự dìu dắt của Ngài, họ sẽ chẳng sợ lầm lạc.”

Tác giả lừng danh Patrignant đã viết: “Thánh nữ Têrêsa là một trong những ngôi sao sáng ngời nhất, một trong những kim cương mỹ lệ nhất nơi triều thiên Thánh Cả Giuse. Bà đã được Thiên Chúa chọn để truyền bá việc tôn sùng Thánh Cả Giuse trong khắp thế giới, và để đặt bàn tay cuối cùng, nếu có thể nói như thế, vào công cuộc lớn lao này” (Dévot à Saint Joseph, q.I, ch.XI).

Nhà thờ của Đan viện cải cách đầu tiên do Bà lập được dâng kính Thánh Giuse. “Bà tự tay đặt ở cửa vào mỗi tu viện một bức ảnh Đức Mẹ và Thánh Giuse trốn sang Ai cập với lời ghi: Pauperem vitam gerimus, sed multa bona habebimus, si timuorimus Deum: Chúng ta sống khó nghèo, nhưng chúng ta sẽ được tài sản lớn, nếu chúng ta kính sợ Thiên Chúa” (Tb 4,23). Trong một khuyến cáo Bà nói: “Mặc dù các chị em tôn kính nhiều vị thánh làm bổn mạng, nhưng chị em hãy có lòng đặc biệt đối với Thánh Cả Giuse, vì Ngài có quyền thế rất lớn trước toà Thiên Chúa” (Avis, LXV).

Đến cuối thế kỷ XVII, nguyên trong dòng Cát Minh người ta đã đếm được 150 nhà thờ mang thánh hiệu Giuse. (Phạm Đình Khiêm, Thánh Giuse Tuyệt Diệu, trang 44-48).

Trong một thị kiến, Bà tự thuật: “Ngày lễ Mông Triệu, tôi được xuất thần như ra khỏi tôi … Tôi được mặc một chiếc áo thật trắng và chói sáng. Thoạt đầu tôi không biết ai đã mặc cho tôi. Nhưng rồi, tôi thấy Đức Mẹ ở bên hữu và cha tôi, Thánh Giuse, ở bên tả đã mặc cho tôi. Và tôi được nghe: từ đây tôi được rửa sạch mọi tội lỗi của tôi. Sau việc mặc áo, tôi cảm thấy đầy hạnh phúc và sung sướng, và tôi thấy Đức Mẹ cầm tay tôi và nói: Mẹ rất vui thích khi thấy con tôn sùng Thánh Cả Giuse vinh hiển. Tôi có thể tin rằng ý định lập dòng của tôi sẽ thành tựu. Chúa Kitô và Hai Đấng sẽ được tôn vinh…” (Hồng Phúc, Thánh Cả Giuse, Cali, Hoa Kỳ, 1996, trang 98).

2.Thầy Anrê và nguyện đường Mont Royal, Montréal, Canada:

Trung tâm quốc tế sùng kính Thánh Giuse là ở Montréal, Canada trong “nguyện đường Mont Royal”. Nguyện đường ấy là một vương cung thánh đường vĩ đại, hằng năm thu hút khoảng 2 triệu khách hành hương. Đó là một công cuộc của một thầy Dòng hèn mọn, thầy Anrê, mà Đức Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước ngày 23-5-1982. Thầy Anrê chính là một thách đố đối với sự khôn ngoan trần thế. Ngài không có sức khỏe thì lại sống đến 91 tuổi. Ngài ít học, chỉ biết ký tên, để trả lời 80.000 bức thư mỗi năm, phải dùng 4 thư ký. Ngài không được ai biết thì mỗi ngày phải tiếp trung bình từ 2 đến 300 người khách. Ngài là một tu sĩ rất nghèo lại xây dựng được một ngôi thánh đường lớn nhất thế giới dâng kính Thánh Giuse.

Alfred Bissette sinh hạ tại Québec ngày 9-8-1845, thứ tám trong một gia đình 12 anh em. Mồ côi cha mẹ sớm, Alfred phải trải qua nhiều đói khổ và bệnh tật, làm bánh mì, làm thợ giày, thợ rèn, lại mắc bệnh yếu bao tử không làm được việc nặng mà Alfred phải mang suốt đời. Điều làm cho anh vượt thắng là sự cậy trông vào Chúa quan phòng và Thánh Cả Giuse.

Lúc lên 25 tuổi, Alfred được nhận vào tập viện Dòng Thánh Giá, trước đây gọi là Dòng Sư Huynh Thánh Giuse và mang tên Anrê. Thầy Anrê làm thầy gác cửa của trường trung học Đức Bà ở Montréal. Mặc dù bị bệnh bao tử hành, thầy vẫn tỏ ra vui vẻ và tiếp đón mọi người, nghe họ tâm sự, từ học sinh đến phụ huynh cha mẹ. Anrê lắng nghe, an ủi, cầu nguyện và khuyến khích cầu nguyện.

Người có biệt tài nói đến Thánh Cả Giuse và xin mọi người cầu nguyện với Thánh Nhân trong mọi thử thách phần hồn phần xác. Bề trên xin thầy phải rút lui không được tiếp ai cả. Thầy tuân lệnh, nhưng vẫn ôm mộng làm được gì lớn lao cho Thánh Cả và các bạn bệnh nhân.

Trước mặt trường Trung học là quả đồi gọi là đồi Mont Royal. Thầy Anrê ước mơ xây ở đó một nguyện đường kính Thánh Giuse. Thầy lên đồi, cầu nguyện suốt nhiều đêm và đem ảnh Thánh Giuse rải khắp nơi. Thánh Cả bắt đầu làm việc.

Với thầy Anrê, không có gì là quá lớn đối với Thánh Giuse. Một đại thánh đường được khởi công. Thầy Anrê có một phòng nhỏ sát cạnh vương cung thánh đường mà Thầy chỉ gọi là “Nhà nguyện Thánh Giuse”. Thầy cầu nguyện và giúp người ta cầu nguyện. Mỗi ngày Thầy giúp lễ, viếng Thánh Thể, tổ chức lần hạt mân côi, đi đàng Thánh Giá. Buổi chiều Thầy xuống phố đi thăm bệnh nhân không thể lên thánh đường và kết thúc bằng việc chầu Thánh Thể.

Thầy Anrê qua đời ngày 6-1-1937 hưởng thọ 91 tuổi. Mặc dầu trời băng tuyết, hơn một triệu người đã đi qua trước linh cữu.

Vương cung thánh đường vẫn mang tên là “Nguyện đường” để ghi nhớ sự khiêm tốn của buổi đầu. Nhưng có đủ mọi dịch vụ của một trung tâm hành hương lớn, dịch vụ tiếp đón, dịch vụ thiêng liêng. Nhất là ở đây còn có một trung tâm đại kết và “Giuse Học”, các nhà thần học hội họp và nghiên cứu về tu đức theo đường hướng cuộc sống của Thánh Giuse.

Ngày 11-9-1982 trong cuộc công du viếng thăm Canada, Đức Gioan Phaolô II đã đến kính viếng “Nguyện đường Thánh Giuse”, và ngôi mộ chân phước Anrê nằm sau bàn thờ chính.

Câu chuyện “Nguyện đường Thánh Giuse” như một câu chuyện thần tiên, khai sinh và triển nở cách lạ lùng. “Không gì là bé nhỏ đối với Thánh Cả Giuse” quả đúng như lời Thầy đã nói (Hồng Phúc, Sđd, trang 109-112).

3.Thánh Giuse Cotignac:

Ở tại Cotignac, miền Nam nước Pháp, có những ngôi thánh đường cổ xưa và kỳ lạ dâng kính Đức Mẹ và Thánh Giuse, lôi kéo rất nhiều du khách hành hương. Ba giai đoạn hành hương tiếp diễn.

Giai đoạn đầu: xảy ra ngày 10-8-1519. Hôm ấy trời rất oi bức trong đám rừng thông núi Verdaille ở Cotignac gần Frejus. Ông Jean de la Baume, sợ hoả hoạn, đã quyết định đốn hạ cây làm củi. Là một Kitô hữu đạo đức, trước khi bắt tay vào việc, ông quỳ gối nguyện kinh.

Nhưng khi đứng lên, ông thấy một ánh sáng lạ xuất hiện bên cạnh, một ánh sáng chói chang đến độ át hẳn ánh sáng mặt trời hôm ấy. Trong bầu ánh sáng ông nhận ra nhiều Đấng vị vọng. Phản ứng đầu tiên của ông là bỏ chạy vì không biết điều gì sẽ xảy ra, thì ông nhìn thấy Đức Mẹ ẵm Chúa Hài Đồng trên tay. Đức Mẹ nói: “Ta là Trinh Nữ Maria, hãy đi nói với các giáo sĩ và các vị chấp chánh ở Cotignac phải xây cất ở đây một nhà thờ mang tên là ‘Nhà Thờ Đức Mẹ Ban Ơn’. Hãy đến tổ chức rước kiệu để hưởng nhờ các ơn huệ mà Ta sẽ ban …”.

Ông Jean de la Baume sửng sốt … xây một nhà thờ … trong cánh rừng thông! Bên cạnh Đức Mẹ lại còn có Thánh Micae, Thánh Nữ Catarina Alexandria … Rồi tất cả như tan biến trong ánh sáng huy hoàng của mặt trời. Ông Jean không nói với một ai về câu chuyện bất ngờ ấy khi chiều tối ông trở về.

Hôm sau, ông trở lại lên khu rừng thông đốn củi và cảnh tượng lạ lại xảy ra. Ông trở về làng kể lại câu chuyện. Dân làng quyết định làm theo lệnh trời ban. Ngôi nhà thờ mọc lên, cuộc hành hương khởi đầu và lớn dần. Ngày 6-5-1628 Đức Giáo hoàng Urbanô VIII giảng thuyết: “Tại Cotignac trong Giáo phận Frejus, có ngôi thánh đường nổi tiếng dâng kính Đức Trinh Nữ Maria, gọi là Đức Mẹ Ban Ơn, vì những phép lạ cả thể mà Thiên Chúa đã làm ở đó, các giáo dân, vì lòng biết ơn và sùng kính, đã chạy đến từ khắp thế giới”.

Giai đoạn hai: liên hệ đến lịch sử nước Pháp, nhất là vua Louis XIII và lời khấn dâng nước Pháp cho Mẹ. Hồi ấy có một thầy dòng tên là Fiacre de Sainte Marguerite. Ngoài đời thầy mang tên là Denis Antheuame. Thầy rất sốt sắng, sau buổi kinh đêm, thầy còn thức khuya cầu nguyện. Thầy lâm bệnh nặng và được đưa vào bệnh xá của dòng. Thầy chỉ sợ một điều là thêm gánh nặng cho nhà dòng. Thầy y tá trả lời: “Đừng lo, Bà hoàng hậu chúng ta Anna Áo quốc (Anne d’Autriche) hay đến đây và giúp chúng ta nhiều để nhà chúng ta cầu nguyện hãm mình xin cho bà được một đứa con nối ngôi báu nước Pháp”. Thầy biết nước Pháp đang cần có hoàng tử nối ngôi. Thầy liền cầu nguyện và ngày 28-10-1637 Đức Mẹ hiện ra với Thầy và cho biết hoàng hậu Áo quốc sẽ sinh hạ một hoàng tử, nhưng trước đó bà phải làm ba tuần cửu nhật, một kính Đức Mẹ Cotignac, một kính Đức Bà Paris và một kính Đức Bà Thắng Trận. Vì sao lại ba? Rất dễ hiểu: Đức Bà Cotignac vì Mẹ hứa ban nhiều ơn, Đức Bà Paris vì là Giáo Hội mẹ, thủ đô nước Pháp, và Đức Bà Thắng Trận vì được tôn vinh do nhiều ơn lành ban cho quốc gia. Vua Louis XIII phu quân được một hoàng tử, và thầy Fiacre thuộc tu viện các tu sĩ Augustinô ở Paris được đề cử, thay mặt nhà vua và bà hoàng hậu, đi đến đền thờ Cotignac để cám ơn Đức Mẹ. Để tỏ lòng biết ơn hơn nữa, vua Louis XIII đã dâng quốc gia cho Đức Mẹ. Đó là điều mà lịch sử gọi là “Lời khấn hứa của vua Louis XIII”. Vua Louis XIV, “Ông vua mặt trời”, đã đi hành hương Cotignac ngày 21-2-1660.

Giai đoạn ba: thật ly kỳ. Ngày 7-6-1660, trên sườn đồi Bessillon, cách nhà thờ Đức Mẹ Ban Ơn ba cây số về hướng Tây, một người chăn chiên tên là Gaspard Ricard đang chăn giữ đoàn vật và ngồi nghỉ dưới gốc cây. Trời nắng chang chang. Anh lại khát nước. Bỗng dưng có một người đàn ông xuất hiện trước mặt anh. Ông lấy tay chỉ vào một tảng đá lớn trên thảm cỏ và nói: “Ta là Giuse. Hãy cất tảng đá này đi và có nước uống”. Anh Gaspard là con người thực tế, anh lượng định sức mình không làm sao xê dịch được tảng đá quá lớn và quá nặng. Người tự xưng là Giuse lại truyền: “Cất hòn đá đi và anh sẽ được nước uống”. Người chăn chiên vâng lời. Anh nâng tảng đá lên một cách dễ dàng như nâng một chiếc lông hồng và đặt một bên. Một dòng suối trong veo, mát mẻ lộ hiện. Anh cúi xuống sát đất và uống một mạch cho đỡ khát. Uống xong, anh ngửa mặt lên để cám ơn người lạ dễ thương. Nhưng không thấy đâu cả. Ông đã biến đâu mất, nhìn trước ngó sau, anh không thấy ai.

Anh vội chạy về làng kể lại việc lạ xảy ra. Nhưng người ta không tin. Anh năn nỉ mời họ ra xem. Giòng nước chảy từ ba giờ và còn chảy mạnh. Mọi người đều kinh ngạc. Tảng đá còn nằm lồ lộ ở đó, tám người thử nâng lên không nổi, như đã được chốt xuống lòng đất. Một tia sáng xuyên qua tâm hồn, Gaspard người chăn chiên chất phác đã hiểu. Giuse kỳ diệu ấy không ai khác là Thánh Giuse. Ngài đã ban cho anh một sức mạnh phi thường để di chuyển tảng đá. Dân làng bắt đầu cầu nguyện. Và từ năm 1660, dân chúng đổ về cầu xin Thánh Giuse và uống nước. Giòng nước tuôn chảy chữa bệnh tật phần xác và phần hồn.

Nhà cầm quyền Cotignac, được dân chúng ủng hộ, đã xây cất ở đó một thánh đường trùm lên suối nước, được Đức Giám mục Frejus long trọng làm phép ngày 9-8-1660. Một tu viện cũng được thiết lập bên cạnh. Tại Cotignac, Thánh Giuse dạy chúng ta “hãy cất hòn đá đi”, để cho “ngọn suối ơn thánh” tuôn chảy. “Ai khát hãy đến với Tôi, ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng người ấy [Ngài] sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7,38) (Hồng Phúc, Sđd, tr. 103-108).

4. Thánh Giuse ở Kapellen, Bỉ:

Năm 1956 tại Anvers, một hải cảng lớn của nước Bỉ, nhưng cũng là một nơi có rất nhiều tệ đoan xã hội, nhất là trong giới nghèo thợ thuyền. Tại đây trong một tu viện, có một chị nữ tu không làm gì khác ngoài việc đi thăm viếng người nghèo và cầu nguyện. Chị tiếp xúc với những người cùng đinh xã hội, những người nghèo xác xơ thường hay đến gõ cửa nhà dòng. Chị đã làm gì? Hay chị có thể làm gì? Khi đã là một nữ tu, thì phương tiện hoạt động rất hạn hẹp. Chị chỉ biết cầu nguyện và khuyến khích mọi người cầu nguyện với Thánh Cả Giuse, và kết quả rất là kỳ diệu.

Đoàn lũ người nghèo ùn ùn kéo đến tu viện bất chấp giờ giấc làm xáo trộn cuộc sống nội vi. Vì thế, chị được lệnh không tiếp ai, không ra nhà khách và lệnh cấm ấy lại phát xuất từ Toà Hồng Y, Đức Van Roey: “Chị phải sống ẩn dật không được đi ra ngoài … Chỉ được đi dạo vòng ngoài công viên lúc sáng sớm …”.

Nhưng ngoài công viên lại có một Pho tượng Thánh Giuse và chị hay đến tỏ bày tâm sự. Và một ngày kia, chị nghe từ pho tượng phát ra, tiếng kêu đích danh chị, và lời dạy sau đây: “Justa, con đem Ta đến khu mới Kapellen, con biết chỗ ấy. Mọi người có thể đến. Ta sẽ cầu xin cho những ai đến kêu cầu Ta, và Trời sẽ xuống gần đất và đất sẽ lên gần Trời”.

Chị Justa hứa sẽ đặt pho tượng vào ngày 1-5. Chị hứa, nhưng không biết làm sao thực hiện. Chị đem câu chuyện chia sẻ với một chị bạn. Chị này phát sợ, đã có nhiều khó khăn rắc rối rồi. Cả nhà dòng phản đối và cả Toà Giám mục nữa: “Chị ơi! chị nghĩ đâu đâu”.

Nhưng chị nghĩ là làm theo Thánh Giuse! Và Thánh Cả chỉ dẫn cho chị biết dần những việc phải làm. Trước hết chị nằm mơ thấy mình đang nằm trong một xưởng thợ, có nhiều người đang làm việc. Bỗng chị thấy trong một xó góc có một pho tượng đầy bụi bặm dơ bẩn, đến độ chị không nhìn ra được tượng gì. Chị liền bắt đầu phủi bụi, lấy một chiếc khăn lau sạch. Thì ra là pho tượng Thánh Giuse. Chị rất kinh ngạc, nhưng vẫn lau chùi, trong khi các người thợ khác tỏ ra khó chịu vì làm bụi lan tỏa. Khi ấy, chị nhìn thấy một vị linh mục không quen biết bước vào. Thì ra là Thánh Gioan Don Bosco, một vị thánh rất sùng kính Thánh Giuse.

Chị Justa chợt tỉnh và tự hỏi mình phải làm sao. Chị liền đi ra công viên đến trước pho tượng Thánh Cả và cầu nguyện. Chị nói: “Nếu Thánh Cả muốn con đưa Ngài đến đó thì xin làm một dấu gì. Xin cho cha xứ đến gặp con hoặc bà ở của ngài cũng được … như một dấu chỉ rằng chính Thánh Cả muốn như vậy, và họ đến gặp con ở nhà khách vì con không được phép gặp ai”. Khu phố Kapellen là một khu phố “đỏ”, nổi tiếng về việc chống đối giáo sĩ mà họ gọi là “những con quạ đen”. Không một linh mục nào đặt chân đến khu chống đối ấy, thì Thánh Cả Giuse lại chọn khu phố đó.

Hai ngày sau, Mẹ Bề Trên tu viện ban phép cho chị Justa được tiếp ở phòng khách bà quản gia của cha sở. Đây là dấu hiệu đầu tiên. Bà biết chị Justa cầu nguyện rất sốt sắng và đến xin chị khấn cho người em ruột đang mắc bệnh ung thư. Chị Justa trả lời: “Nếu bà làm hết sức để thuyết phục cha xứ đặt một pho tượng nhỏ Thánh Giuse tại khu phố mới Kapellen vào ngày 1-5 đến, chắc chắn bà sẽ được Thánh Giuse nhậm lời”. Chị xin bà quản gia thuyết phục cha sở cho bằng được, vì việc đặt tượng không phải dễ. Cha sở từ chối ngay: “Thật là điên khùng. Ai lại đặt tượng Thánh Giuse vào giữa một khu phố chống giáo sĩ, vào ngày lễ lao động!”.

Thánh Giuse lại phải can thiệp. Cha sở đã xiêu lòng phần nào khi thấy bà em cô quản gia của mình được lành bệnh hoàn toàn, tức khắc và lâu bền, nhưng vẫn khăng khăng từ chối. Thánh Giuse lại gửi đến cho cha một cơn bệnh rất khó chịu. Nhưng cha vận dụng lý trí để phân tích: Khu phố Kapellen thiết lập từ năm 1920 rất chống báng, ở đó có một bầu khí rất thù ghét Giáo Hội. Con cái gia đình nào được gửi đến trường đạo, cha mẹ đó sẽ bị tẩy chay sỉ vả. Ai lại đem pho tượng Thánh Giuse đặt vào đó?

Cha sở được lành bệnh nhưng chỉ đặt pho tượng tại tư gia của mình. Thánh Giuse lại phải can thiệp bằng cách gửi đến cha sở ương ngạnh bệnh sưng đầu gối, cần phải mổ. Cha không hiểu làm sao cả. Cha liền dâng lại lời hứa sẽ đặt pho tượng Thánh Cả Giuse tại khu phố oái ăm này. Khi bệnh sưng chân được khỏi, cha lại cho rằng muốn đặt một pho tượng ngoài trời thì phải có một pho tượng khá lớn. Thánh Giuse lại can thiệp. Một bà lạ, từ đâu đến nhà cha sở, xin dâng một pho tượng Thánh Giuse, mà bà cho rằng nhà bà không xứng để đặt tượng Ngài. Bà nói: “Đây pho tượng Thánh Giuse, cha có biết một nơi nào muốn đặt pho tượng này không?”. Lạ thật cha sở vận dụng tất cả can đảm đến gặp Hội Đồng Thị Xã để xin phép đặt tượng. Ông Thị trưởng ký giấy cho phép ngay. Ai cũng ngạc nhiên.

Ngày áp lễ Lao Động, một người thợ mộc dựng chiếc đế cao để đặt pho tượng trước hiên một ngôi nhà. Hàng xóm không bằng lòng, nhưng giấy phép chính thức đã có, công việc vẫn tiến hành. Các phong trào bài giáo sĩ dự định đem “hội kèn tây” đến thổi để lấn át tiếng của cha sở khi dọc diễn văn khánh thành. Thánh Giuse lại can thiệp cho người đi giải độc, cho họ biết Thánh Giuse là một người lao động như họ và là quan thầy giới lao động, vì thế không nên chống phá. Ngày lễ Lao Động cũng là ngày khánh thành, làm phép pho tượng. Khu phố Kapellen đầy cờ đỏ phất phới, nhiều hội kèn tây cử những bài mừng Thánh Giuse. Thật long trọng.

Pho tượng Thánh Cả được đặt giữa hai ngôi nhà và người ta bắt đầu đến kính viếng. Nhóm người chống đối dần dần cũng đổi thái độ. Một bà già 80 tuổi ở gần đó, cảm thấy mình sắp được Chúa gọi về, đề nghị bán ngôi nhà đang ở để các linh mục biến thành ngôi nhà nguyện kính Thánh Giuse.

Giáo dân lũ lượt đến kính viếng, nhất là vào ngày thứ tư, cha sở chủ sự cầu kinh trước pho tượng Thánh Cả. Ngày 3-5-1957, Toà Tổng Giám Mục gửi người đến thanh tra và cấm cha sở không được dự vào việc sùng kính có vẻ quá ồn ào ở đó. Cha sở bị cấm, nhưng giáo dân không bị cấm, vẫn tiếp tục kéo đến, xung quanh pho tượng chất đầy những tấm đá tạ ơn.

Năm 1962 Đức Gíam mục mới của Tổng Giáo phận Anvers ban phép xây cất nhà nguyện mới, và năm 1964 thánh lễ đầu tiên được cử hành (Hồng Phúc, Sđd, tr. 113-119).

5.Trung tâm Mont-Rouge:

Một trung tâm mới nhất ờ Pháp dâng kính Thánh Giuse là Trung tâm Mont Rouge ở Languedoc, cách Béziers 12 cây số. Một trung tâm thanh vắng nhìn ra biển Trung Hải, để tĩnh tâm cầu nguyện.

Cũng như mọi nơi khác, công việc Thánh Cả Giuse khởi đầu trong âm thầm trầm lặng. Ngày 1-5-1966, cha Réné Granier, cha sở xứ Puimission, với giáo dân tổ chức cuộc cung nghinh Thánh Giuse từ làng lên đồi Mont Rouge, ngọn đồi được dâng hiến cho Thánh Cả và Thánh nhân bắt đầu làm việc. Nhiều cơ sở được xây dựng nên, một ngôi nhà thờ được khánh thành vào ngày 1-5-1968. Ai cũng biết tháng 5-1968 ở Pháp như có một cuộc cách mạng nhỏ suýt gây nên một đỗ vỡ lớn. Trong ngày ấy, kỷ niệm việc Đức Giáo hoàng Piô XII thiết lập Lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955, tại đồi Mont Rouge, trong khuôn viên Thánh Giuse vừa được mãi tậu. Thánh lễ đồng tế đầu tiên được cử hành, khởi đầu các cuộc hành hương của miền Languedoc. Nhiều cơ sở được xây dựng để đón tiếp khách hành hương. Hàng ngàn cây được trồng bao quanh đồi biến thành một nơi im lặng mát mẻ, để tĩnh tâm cầu nguyện. Một tu hội giáo dân được thành lập để lo dịch vụ hành hương, một tờ báo: Tiếng Vọng Mont Rouge được phát hành. Tất cả đều nhắm về một ý hướng: “À JESUS PAR MARIE, AVEC SAINT JOSEPH: NHỜ MẸ MARIA, VỚI THÁNH GIUSE ĐẾN VỚI CHÚA GIÊSU” (Hồng Phúc, Sđd, tr. 120-121).

Lời kết

Cố gắng hoàn thành tập viết Để Hiểu và Yêu Mến Thánh Giuse Hơn này, nhằm:

  • Để tôn vinh Thánh Cả.

  • Để tạ ơn Thánh Cả đã “chữa lành” sau khi bị tai nạn cách đây 3 tuần.

  • Để nhớ cha mẹ tôi và nhất là “mãi nhớ” lời bố tôi khuyên khi tôi chịu chức linh mục: “đi đến xứ nào, con cứ cỗ vũ lòng sùng kính Thánh Cả Giuse, Ngãi sẽ phù hộ cho”. Vâng, hôm nay, tôi dám thưa với bố tôi: “Bố ơi, con vẫn nhớ và làm theo lời bố khuyên, Thánh Cả luôn phù hộ con, đã ba lần Ngài thử thách con, rồi cứu chữa và ban ơn cho con”.

Tôi mượn Bài Thơ (hoạ theo kinh cầu Thánh Giuse) của tác giả Châu Thuỷ, tôi coi là “bậc thầy” về Thánh Cả Giuse; và Bản Nhạc Nguyện Cầu Cùng Thánh Cả của Gioan, người học trò đã tặng tôi, làm món quà “thi-ca” tặng lại các bạn trong Năm Đặc Biệt Kính Thánh Giuse này.

XIN THÁNH CẢ GIUSE PHÙ HỘ CHO CHÚNG CON VÀ HỘI THÁNH

KINH CẦU THÁNH GIUSE
Đặt làm thơ ca

Thánh Giuse! Con dòng Đavít,
Cùng Mẫu nghi được kết duyên lành,
Giữ gìn Đức Mẹ đồng trinh,
Dưỡng nuôi Con Chúa, điều hành Thánh Gia.
Thánh Giuse thật thà công chính,
Cùng khôn ngoan, khiết tịnh hơn người,
Đã dũng cảm, lại vâng lời
Thanh bần, nhẫn nhục, trọn đời tín trung.
Thánh Giuse! Gương trong đức hạnh,
Mọi gia đình hiếu thuận phải soi.
Những người đồng trinh thánh trông coi.
Những người thuyền thợ, hãy noi mẫu này
Thánh Giuse! Quan thầy Giáo hội,
Bầy quỷ dữ chạy vội, trốn xa.
Bệnh nhân thánh chữa an hòa,
Những người tạ thế thì cha vỗ về.
Nguyện cầu Thánh Cả Giuse,
Xin thương phù hộ mọi bề chúng con!

Châu Thủy, USA.

THƯ MỤC

Sách tham khảo:

  1. Thái Bạch, Tìm Nơi Thinh Lặng, Paris, 2000.

  2. Leon Christiani, Saint Joseph, Apostolat de la Presse, 1962.

  3. Daniel Foucher, Notre Père, Joseph Le Charpentier, Đinh Minh Thỏa chuyển ngữ, Nxb Tôn Giáo 2009.

  4. Hồng Phúc DCCT, Thánh Cả Giuse, Hoa Kỳ, 1996.

  5. Châu Thủy, Thánh Giuse trong Phúc Âm, NSTTĐM Hoa Kỳ,1989.

  6. Lm Giuse Trần Đình Thụy, Những bài suy niệm năm đặc biệt kính thánh Giuse, 2020.

  7. Nguyễn Hữu Thy, Thánh Giuse, Người Tôi Trung Của Thiên Chúa, Trier (Đức), 30.11.2014.

  8. UBVH-HĐGMVN, Hướng Dẫn Về Lòng Đạo Đức Bình Dân Và Phụng Vụ, 2003.

  9. Bộ Giáo sĩ, Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, Nxb Tôn Giáo, 2013.

  10. Kỷ yếu 45 năm Ký Ức & Ước Mơ , trang 4-5.

Trang mạng tham khảo:

  1. https://fr.wikipedia.org/wiki/Neuvaine

  2. https://fr.wikipedia.org/wiki/Madeleine_Aumont

  3. https://eglise.catholique.fr/glossaire/neuvaine/

  4. https://hozana.org/priere/neuvaine/histoire

  5. https://fr.wikipedia.org/wiki/Neuvaine_%C3%A0_saint_Joseph

  6. http://www.dongcong.net/DoiSongKH/BiTich-DieuRan/KinhTCNThGiuse.htm

  7. http://www.thanhtamchuagiesu.org/htsd/TuanCuuNhat-ThanhGiuse.htm

  8. http://memaria.net/eBookThanhGiuse_Bai8.html

  9. http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&ArticleID=105546

  10. http://daminhvn.net/, Phan Tấn Thành, Những Văn Kiện Của Huấn Quyền Cận Đại Về Thánh Giuse

  11. https://vi.wikipedia.org/wiki/Tang_lễ_của_Giáo_hoàng_Gioan_Phaolô_II.

  12. http://www.ncregister.com/blog/joseph-pronechen/major-apparitions-of-st.-joseph-are-approved.

     Lược sử

[1] Lược dịch từ: Msg. Leon Christiani, Saint Joseph, Apostolat de la Presse, 1962.[2] Lược trích: Châu Thủy, Thánh Giuse trong Phúc Âm, NSTTĐM HOA KỲ,1989
[3] Lược trích: Châu Thủy, Thánh Giuse trong Phúc Âm, NSTTĐM HOA KỲ,1989.
[4] Lược trích: Châu Thủy, Thánh Giuse trong Phúc Âm, NSTTĐM HOA KỲ,1989.
[5] Lm Giuse Trần Đình Thụy, Những bài suy niệm năm đặc biệt kính thánh Giuse, 2020.
[6] Kỷ yếu 45 năm Ký Ức & Ước Mơ , trang 4-5.
[7] Trích Bài đọc 1, Kinh Sách lễ Thánh Gia
[8] Bộ Giáo sĩ, Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, Nxb Tôn Giáo, 2013.
[9]
ĐGH Biển-đức XVI, Kinh truyền tin (18/12/2005): Enseignements I (2005), 1003.
[10] Bộ Giáo sĩ, Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, Nxb Tôn Giáo, 2013.
[11] Giáo lý Giáo hội Công giáo, 144.
[12] Sđd., 2599.
[13] Thái Bạch, Tìm Nơi Thinh Lặng, Paris, 2000.
[14] Lêô XIII, Thông điệp Quamquam pluries (15-08-1889), Romae 1890, trang 180.
[15] Cf. Piô XII, Huấn dụ Ad Adscriptos Societatibus Christianis Operariorum Ltalicorum, 01-05-1955.
[16] Cf. Thánh Bernardine thành Siena, De Santo Joseph Sponso Beatae Virginis, Ad Claras Aquas 1959, trang 28.
[17] Cf. CALENDARIUM ROMARUM, Litanae Sanctorum, cit., 1969, trang 33-39.
[18] Sđd. Trang 143.
[19] Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos, 1, trong ASS 82 (1990) 31.
[20] Cf. RITULE ROMANUM Pauli V Pontificis Maximi iussu editum…
[21] MARTYROLOGYUM ROMANUM ex derecto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani Secundi in Stauratum autoritate Ioannis Pauli PP. II promulgatum auctoritate Ioannis Pauli PP. II promulgatum, Editio Typica. Typiis Vaticanis 2001.
[22] https://fr.wikipedia.org/wiki/Neuvaine
[23] VIII, XLII ; P.G., I, 1147.
[24] Resc. Auth. S.C. Indulg., 382.
[25] https://vi.wikipedia.org/wiki/Tang_lễ_của_Giáo_hoàng_Gioan_Phaolô_II
[26] Schmitz, Die Bussbucher und die Bussdisciplin, II, 1898, 539, 570, 673.
[27] Xem: http://www.dongcong.net/DoiSongKH/BiTich
DieuRan/KinhTCNThGiuse.htm
[28] Lm Giuse Trần Đình Thụy, Những bài suy niệm năm đặc biệt kính thánh Giuse, 2020.
[29] Trích dịch từ https://fr.wikipedia.org/wiki/Madeleine_Aumont
[30] Lược trích từ: http://www.thanhtamchuagiesu.org/htsd/TuanCuuNhat-ThanhGiuse.htm
[31] Nguồn: Trích lược từ http://www.memaria.org/default.aspx LangID=0&ArticleID=105546
[32] “Nihil obstat”, tiếng Latinh có nghĩa là, “không có gì trở ngại” (x.GL 830); “Imprimi Potest” tiếng Latinh có nghĩa là, “có thể được in ra” (x.GL 824,1) ; và “Imprimatur” tiếng Latinh có nghĩa là, “hãy được in ra” (x.GL 824 ;829-830).
[33] Lược trích từ: https://sites.google.com/site/jesusmarysaves0uls/biet-kinh-duong-phu-tam-giuse/bai-1-thanh-ca-giuse-hien-ra-o-brazil-da-duoc-cong-nhan.
Theo nguồn:  http://www.ncregister.com/blog/joseph-pronechen/majorapparitions-of-st.-joseph-are-approved.
[34] Trích dịch từ https://fr.wikipedia.org/wiki/Neuvaine_%C3%A0_saint_Joseph
35] Trích từ: http://memaria.net/eBookThanhGiuse_Bai8.html
[36] Trích từ: http://hivong.org/giuselamphepla.php