CHÚA NHẬT 30 MÙA THƯỜNG NIÊN C
– Hc 35, 12-14, 16-18; Lc 18, 9-14
*Hc 35, 17a: lời nguyện cầu của người nghèo vượt ngàn mây thẳm
*Lc 18, 13-14: người thu thuế đấm ngực thưa rằng: Lạy Thiên Chúa xin
thương xót con là kẻ tội lỗi…Người này khi trở xuống mà về nhà thì đã được
nên công chính…
Lời Chúa của Chúa Nhật 30 C Mùa Thường Niên mời chúng ta tiếp tục suy
tư về vấn đề CẦU NGUYỆN: cách cầu nguyện đẹp lòng Chúa và chắc chắn sẽ
được nhận lời. Lời Chúa tuần trước nhấn mạnh khía cạnh cầu nguyện kiên trì trong
phó thác: cầu nguyện không ngưng nghỉ, không nản chí, cầu nguyện cho đến xong
việc mới thôi. Và việc chỉ xong vào ngày Quang Lâm (x. Lc 18, 8b). Lời Chúa của
Chúa Nhật 30 C bổ sung thêm một vài yếu tố mà tín hữu phải có khi cầu nguyện để
lời van xin của mình được Chúa nhậm lời. Tâm tình tín thác vào Lòng thương xót
Chúa vẫn là yếu tố hàng đầu: tin Chúa yêu thương, nhận lời cầu nguyện của kẻ bất
hạnh nghèo hèn, của những ai phục vụ Chúa đang chân tâm cầu nguyện. Và điểm
nhấn của Chúa Nhật hôm nay là cầu nguyện với tâm tình KHIÊM CUNG, nhận ra
mình bất lực, tội lỗi, không xứng đáng được Chúa nhận lời, chỉ còn 1 nơi cậy dựa
duy nhất chính là Thiên Chúa, là lòng thương xót, quảng đại của Người.
Trong Kinh Thánh, người hèn mọn khiêm cung là người chỉ có Thiên Chúa là nơi
cậy dựa duy nhất (x. Tv 25,8-9.15; Tv 34,5-11; Tv 86,1-7) (x. ĐNTHTK “Nghèo”.
III).
Theo cái nhìn của Cựu Ước, thì khi nhờ các ngôn sứ hay tư tế thỉnh cầu ý
Chúa thì người kêu xin cũng phải trả một chút thù lao (x. 1Sm 9, 6-8); để cầu xin ơn
tha thứ cũng cần có lễ vật đền tội (x. Lv 5, 14-26); và sau thời lưu đày sách Huấn
Ca còn khuyên: đừng đến trước nhan Chúa với đôi bàn tay không, nghĩa là không
có lễ vật (x. Hc 35, 1-4). Mặc dù vậy, lễ vật hậu hỉ không là yếu tố chính để Chúa
nhận lời, Chúa không bị người ta hối lộ (Hc 35, 11-12). Thiên Chúa vẫn dành nhiều
ưu ái cho những người nghèo hèn, chịu nhiều thua thiệt, sống công chính và đang
khẩn cầu Người, trong tâm tình khiêm nhu phó thác.
Bài đọc 1 trích từ Sách Huấn Ca, mở đầu bằng một khẳng định rằng Thiên
Chúa là Thẩm Phán công minh, không thiên vị ai. Chuẩn mực cho mọi phán quyết
của Người là CHÍNH NGƯỜI. Từ xác tín cơ bản đó, Sách Huấn Ca liệt kê ra một
số hạng người mà lời kêu cứu của họ chắc chắn được Chúa đoái nghe. Đó là những
2
người nghèo hèn, bị bách hại, những người bị áp bức, những kẻ mồ côi, những
người góa bụa (x. Hc 35, 13-14). Và nhất là những kẻ phục vụ Chúa theo Thánh Ý
Người (35, 16).
Phần thứ hai của bài đọc 1 (35, 17-18) nhắc lại chủ để của tuần trước: phải
cầu nguyện kiên trì tín thác. Dù biết chắc chắn rằng Chúa sẽ đoái nhận lời mình kêu
xin nhưng người của Chúa không vì thế mà lơi lỏng việc cầu nguyện, phải luôn bám
chặt vào Chúa tới cùng: “họ sẽ không rời đi bao lâu Đấng Tối Cao chưa đoái nhìn,
chưa xét xử cho người chính trực và thi hành công lý (35, 18).
Họ là những người mà Kinh Thánh gọi là ANAWIM, tức là những “người
nghèo của YAVÊ”. Họ là những người chỉ có Thiên Chúa là nơi cậy dựa duy nhất,
là Đấng Bảo Vệ duy nhất của họ trước mọi nỗi khốn cùng, tinh thần cũng như thể
xác, đến từ mọi phía: xã hôi, tôn giáo, người đời. Họ chỉ biết chạy tới cùng Thiên
Chúa, bày tỏ nỗi tủi nhục, bất lực của mình, rồi kiên trì, khiêm cung chờ lời đáp trả
của Thiên Chúa. Chắc chắn họ sẽ được nhận lời! “Lời họ kêu cầu sẽ vọng tới tầng
mây” (35, 16b), là nơi Thiên Chúa ngự trị (x. Tv 68, 35; 104,3…).
Chủ đề hãy cầu nguyện trong tâm tình khiêm nhường, sám hối được Đức
Giêsu, trong Tin Mừng 30 C Mùa Thường Niên, minh họa bằng một dụ ngôn, với
chủ đích thật là rõ ràng: nhằm cảnh cáo “những kẻ tự hào cho mình là công chính
mà khinh chê người khác” (x. Lc 18, 9). Đây là hạng người kiêu ngạo đến độ tiếm
đoạt cả quyền xét xử của Thiên Chúa: họ tự lấy mình làm chuẩn mực luân lý nên
mới “tự phụ cho mình là công chính”; rồi từ đó tiếm đoạt quyền xét xử của Thiên
Chúa “mà khinh chê kẻ khác”. Có 2 người lên đền thờ cầu nguyện: một người biệt
phái và một người thu thuế.
1/Người biệt phái tự kiêu nên “đứng riêng một mình” vì tự cho mình công chính,
trong sạch nên không dám hòa mình với đám dân tội lỗi, nhất là với tên thu thuế
đang đứng ở cuối Đền Thờ. Anh ta tâm nguyện rất bài bản: mở đầu bằng lời tạ ơn
Chúa. Tiếc thay nội dung lời nguyện của anh ta không có gì là tạ ơn Chúa mà chỉ là
lời phô trương công nghiệp của mình để rồi lấy đó làm chuẩn mà khinh chê kẻ
khác. Thật ra những việc anh đã làm: “ăn chay mỗi tuần 2 lần”; “dâng cho Chúa
1/10 thu nhập” đều là những việc đáng khen và vượt hơn nhiều so với những gì
Luật đòi hỏi. Nhưng tiếc thay, anh đã quá tự kiêu, để những thứ đó chiếm đoạt hết
con người anh ta đến độ chỉ còn biết có bản thân mình là tốt, không còn có chỗ nào
trong tâm hồn anh ta để đón nhận ơn Chúa và đưa tới thái độ loại trừ, kết án tha
nhân. Do đó ơn tha thứ, ơn công chính hóa của Chúa không có chỗ để chen vào
trong tâm hồn anh ta. Ơn Chúa không có đất để bén rễ trong hồn anh ta.
2/ Còn người thu thuế đứng từ đàng xa, cúi gầm đầu, đấm ngực không dám nói gì
hơn ngoài lời “lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
3
Và Đức Giêsu kết luận: người thu thuế ra về được NÊN CÔNG CHÍNH, còn người
biệt phái thì không. Tại sao lạ vậy? vì trong hồn của người biệt phái không còn chỗ
nào để ơn Chúa hoạt động. Còn người thu thuế chỉ còn 1 con đường sống là cậy dựa
vào lòng thương xót của Chúa và mở hết cõi lòng xin Chúa thương xót. Chính lòng
thương xót ấy đã tha thứ, biến đổi và làm anh ta nên công chính. Tự cho mình là
công chính đến độ dám kể công với Thiên Chúa, xét đoán tha nhân. Đó là một biến
thái trá hình tinh vi của tội nguyên tổ. Đó là một “trái cấm” cho nhân loại hôm nay.
Hãy đề phòng! Hãy khiêm tốn cầu nguyện với tấm lòng tan nát khiêm cung, Chúa
sẽ nhận lời và làm cho ta nên công chính.






























