CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH – năm B

Bài 1

Cv 10,25-26.34-35.44-48; Ga 15,9-17

Chủ đề: Hiệp thông là ở lại trong tình thương
của Đức Giêsu và đón nhận nhau

* Cv 10,35: ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành đều được Thiên Chúa tiếp nhận.

* Ga 15,10: Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy.

Hôm nay là Chúa Nhật VI B Mùa Phục Sinh. Lời Chúa mời chúng ta tiếp tục khám phá những nét phong phú vô biên của mầu nhiệm hiệp thông vốn là hoa trái của mầu nhiệm Phục Sinh. Lần này Lời Chúa phá vỡ biên giới địa lý, chủng tộc… do cái nhìn hạn hẹp về ơn cứu độ do người Do Thái tạo ra để mở rộng mối dây hiệp thông ra cho toàn thế giới. Các dân ngoại, trước kia, bị người Do Thái khinh chê coi là “ô uế”, là “chó” không đáng được ăn bánh dành cho con cái, thì nay trong Đức Giêsu phục sinh, họ được cộng đoàn thiên sai do Đức Giêsu thiết lập – tức Hội Thánh – ân cần đón nhận đi vào mối hiệp thông của đoàn con cái Chúa. Đó là ý muốn của Thiên Chúa: và Thiên Chúa đã ban dấu chỉ là Thánh Thần cũng ngự xuống trên dân ngoại để phá vỡ mọi rào cản ngăn cách Do Thái với dân ngoại, biến đổi tầm nhìn của các tông đồ lẫn của những người Do Thái đã tin vào Đấng Phục Sinh, giúp tất cả nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ Thần Khí, nhận ra được ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa nên đã đồng lòng hiệp ý với vị thủ lãnh của dân mới của Chúa là Phêrô đón nhận dân ngoại vào Giáo Hội.

Sự hiệp thông trong Đấng Phục Sinh được Thánh Thần khơi dậy và thúc đẩy. Các tín hữu phải biểu lộ sự hiệp thông đó ra bằng cách sống giới luật yêu thương theo lệnh truyền và mẫu gương của Đấng Phục Sinh: “anh em hãy yêu thương nhau NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG ANH EM” (Ga 15,12). Đó là yêu thương đến hy sinh mạng sống vì bạn hữu. Chúa không đòi chúng ta phải chết vì bạn hữu theo nghĩa đen; Nhưng trong việc tin vào Đấng Phục Sinh là cội nguồn sự sống thì Chúa muốn kẻ tin đừng giữ riêng niềm tin ấy cho mình mà phải chia sẻ rộng rãi ra cho mọi người rồi sẵn sàng đón nhận họ vào cộng đoàn của Đấng Phục Sinh là Giáo Hội.

Bài đọc một là đoạn kết của Cv 10, thuật lại việc Phêrô và một nhóm kitô hữu gốc Do Thái đi theo ông (Cv 10,23b) đến nhà một sĩ quan Rôma, dân ngoại, là ông Cornêliô, theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua hai thị kiến: một cho Phêrô (Cv 10,9-16), một cho Cornêliô (Cv 10,17-23). Tại nhà Cornêliô, Phêrô đã được tiếp đón cách trân trọng như là sứ giả của Thiên Chúa (10,26). Tiếp đó là Phêrô đã loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho nhà Cornêliô. Mở đầu bài đọc một, Phêrô công bố tính phổ quát của ơn cứu độ: “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ở ngay lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào cũng đều được Người tiếp nhận” (10,34-35). Tiếp đó là nội dung lời rao giảng tiên khởi về Tin Mừng Phục Sinh (10,36-43), nhưng bài đọc một không trích đọc đoạn này. Phụng vụ muốn quy hướng tất cả vào DẤU CHỈ CỦA THÁNH THẦN giúp Phêrô nhận ra ý Chúa rồi mở lòng đón nhận dân ngoại vào Giáo Hội.

Thật vậy, đang khi Phêrô loan báo Tin Mừng Phục Sinh thì “Thánh Thần Thiên Chúa đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe Lời Chúa” và họ nói được các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Ơn ban cho môn đệ trong lễ Ngũ Tuần được ban cho dân ngoại. Thiên Chúa đã ra dấu hiệu hãy phá vỡ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái và dân ngoại, từ nay tất cả là một Giáo Hội trong Đức Kitô Phục Sinh (x.Ep 2,14-18; Cr 12,13).

Qua bài Tin Mừng, hoa trái hiệp thông từ mầu nhiệm Phục  Sinh chính là việc giữ giới luật YÊU NHAU theo mẫu gương và lệnh truyền của Đức Giêsu (Ga 15,12). Trao ban giới luật YÊU NHAU NHƯ THẦY cách tự nguyện, Đức Giêsu muốn nâng môn đệ lên hàng bạn hữu Người. Người sẽ đưa môn đệ đi vào sự hiệp thông thần linh với Ba Ngôi: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (15,15). Về phần môn đệ, để đi vào mối hiệp thông bạn hữu với Đức Giêsu chỉ cần một điều “YÊU NHAU NHƯ THẦY”. Đó là di chúc Đức Giêsu để lại cho môn đệ.

Đức Giêsu chọn môn đệ là nhằm mục đích này: sau khi đi vào tương quan hiệp thông bạn hữu với Đức Giêsu thì người môn đệ, tới phiên mình, phải trở nên trung gian, cầu nối tạo mối hiệp thông bạn hữu giữa các tín hữu thế hệ tương lai với Đức Giêsu Phục Sinh. Giữ lệnh truyền YÊU NHAU NHƯ THẦY là cách thức tuyệt hảo mà tín hữu mọi thời phải thực thi để góp phần hoàn tất dự tính yêu thương của Thiên Chúa là tạo nên sự hiệp thông mật thiết giữa Cha – Con – môn đệ – và nhân loại mọi nơi mọi thời. Tất cả là để chuẩn bị cho mối hiệp thông chung cuộc: Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự (x. 1Cr 15,28).

Bài 2

“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em… Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy… Thầy gọi anh em là BẠN HỮU” (Ga 15,12b.14.15)

Lời Chúa hôm nay tiếp tục khai triển chủ đề hoa trái của mầu nhiệm phục sinh. Mối hiệp thông giữa các tín hữu với nhau ngày càng lớn lên, càng bền chặt, lan rộng đến cả dân ngoại. Dấu hiệu khai mở cho biến cố hiệp thông này đến từ Thiên Chúa: hai cuộc thị kiến (Cv 10,3-8 và Cv 10,9-20). Và hồng ân đó của Thiên Chúa được sinh hoa kết trái nhờ sự tuân phục từ phía con người chịu để cho Thiên Chúa “cắt tỉa”:

– Viên sĩ quan đạo đức người Rôma chấp nhận khiêm nhường sai người đi mời gọi một người dân vô danh thuộc địa đến nói cho mình về một “người Do Thái khác” bị người Rôma đóng đinh như một tử tội (thị kiến một). Nên biết rằng chức vụ đại đội trưởng một cơ đội Italia là sĩ quan cao cấp điều khiển dưới quyền mình đến 600 lính (x.CGKPV “Kinh Thánh Tân ước” có hiệu đính 2008 trang 501 nốt “s”). Thiên Chúa đã “cắt tỉa” ông, chuẩn bị cho một sĩ quan dân ngoại uy quyền, trở thành một môn đệ của một giáo phái mới chỉ vừa mới chớm nở trong vài chục năm.

– Phần Phêrô cũng được Chúa “cắt tỉa” khỏi ông những “nhánh nho” cuộc bộ, lỗi thời của Luật kiêng kỵ, sạch dơ của người Do Thái. Những yếu tố làm tắt nghẹn dòng nhựa “Cây Nho Thật Giêsu” đến với các “cành nho” dân ngoại đã được chính Thiên Chúa dẹp bỏ. Sự kiện xảy ra trong thị kiến của Phêrô được lập lại đến ba lần (Cv 10,16). Vậy mà Phêrô vẫn còn nghi ngại, Thiên Chúa phải thúc giục lần thứ tư, Phêrô mới đón nhận việc “cắt tỉa” của Thiên Chúa (thị kiến hai).

Chi tiết trên cho thấy việc thi hành lệnh truyền của Chúa “rửa chân cho nhau” không phải là chuyện dễ. Một khi mình đã gặp trục trặc trong việc chịu để Chúa rửa chân cho mình (x.Ga 13,8-9), nghĩa là còn vướng chút cản trở nào đó trong việc hoàn toàn chấp nhận đường lối hành động của Chúa, thì mình cũng sẽ khó lòng đón nhận ngay việc phải noi gương Thầy “rửa chân cho nhau”.

Bài đọc Tin Mừng hôm nay là trích đọc tiếp theo ngay sau bài đọc tuần trước, Chúa Nhật V B. Chủ đề vẫn là sự hiệp thông giữa Chúa Cha – Đức Giêsu – và đoàn môn đệ. Nhưng Đức Giêsu không nói quanh co bằng các dụ ngôn hoặc bằng sử dụng các thể loại văn chương biểu tượng nữa mà Người mặc khải thẳng, đi trực tiếp vào mầu nhiệm.

1.Cội nguồn của hiệp thông là Tình Yêu của Cha (c.9)

* Trước tiên là Cha yêu Con: những gì ta biết được về Tình yêu của Cha đối với Con đều là do Đức Giêsu mặc khải vì Giêsu đã coi môn đệ là bạn hữu nên Người nói hết cho môn đệ những gì Người nghe biết nơi Cha (x.Ga 15,15). Và Đức Giêsu đã mặc khải Tình Yêu của Cha đối với Người được biểu lộ qua: – Cha giao hết mọi sự trong tay Con (Ga 3,35) – cho Con thấy, biết, tham gia vào mọi công trình của Cha (Ga 5,20) – trao cho con quyền ban sự sống cho kẻ chết và quyền xét xử (Ga 5,21-22) – yêu con đến độ chấp nhận cùng một vận mạng với Con: Cha muốn ai nấy đều phải “tôn kính Con như tôn kính Cha; Kẻ nào không tôn kính người Con thì cũng không tôn kính Cha” (Ga 5,23).

* Và tình  yêu của Cha đối với nhân loại được mặc khải như sau: “Cha đã yêu thế gian đến độ tặng ban Con Một để ai tin vào người Con ấy thì được cứu” (Ga 3,16). Chẳng những ban tặng người Con, Thiên Chúa còn chỉ đạo cho người Con những việc phải làm để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại: đó là Đức Giêsu sẽ hy sinh mạng sống cách tự nguyện để rồi lấy lại mạng sống đó. Đó là mệnh lệnh của Cha truyền Đức Giêsu phải thực hiện (Ga 10,18).

* Đáp lại Ý Cha, Đức Giêsu cũng yêu thương nhân loại đến cùng, nên trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã chuẩn bị sẵn tất cả mọi yếu tố cần thiết để cái chết Thập Giá của Người thật là một hiến tế tự nguyện, có năng lực thắng thần chết, lấy lại mạng sống trở thành người cứu độ cho nhân loại (Ga 13,1-5; Lc 22,14-20…).

Vậy Tình Yêu của Cha đối với Đức Giêsu và đối với nhân loại là cội nguồn của hiệp thông. Và cầu nối để đưa nhân loại vào hiệp thông với Cha chính việc Con đã vâng lời Cha hy sinh mạng sống để rồi lấy lại, nhờ đó nhân tính của loài người được hiệp thông với thiên tính trong và nhờ Đức Kitô.

2.Phía con người, để được hiệp thông: ở lại trong tình thương của Thầy

Đức Giêsu đang ở những giây phút cuối cùng của cuộc sống trần thế của Người. Người đã đảm nhận đến cùng cái trần thế tội lỗi này làm của Người. Người mang trong thân xác Người toàn thể “bụi đất” mà từ đó Thiên Chúa đã dựng nên nhân loại. Giờ đây sứ mạng đã hoàn tất, đã đến “giờ” Người trở về lại với Cha. Nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương các môn đệ (và cả nhân loại nữa) đến cùng (x.Ga 13,1). Người không muốn bỏ họ bơ vơ trong thế giới tăm tối này, Người không để họ mồ côi (x.Ga 14,18). Người ao ước họ được chung phần với Người (x.Ga 13,8), cùng ở với họ trong nhà Cha (x.Ga 14,2-3). Cuộc chia tay này chỉ là tạm biệt: Người về nhà Cha trước để dọn chỗ cho họ. Tuy nhiên trong thân phận làm người và cũng là theo dự tính của Cha: để về được nhà Cha, mỗi người trong các môn đệ phải hoàn tất, đi hết con đường làm người của mình như Đức Giêsu đã làm.

Vậy trong khoảng thời gian “tạm vắng” của Đức Giêsu, mỗi môn đệ, từng con người trong thân phận lữ hành phải ứng xử như thế nào để trong lúc “xa mặt” như thế thì đừng bị rơi vào tình trạng “cách lòng”? Để họ được tiếp tục HIỆP THÔNG với Người; Để nhựa sống của “Cây Nho Thật”; Để sự chăm sóc của Vị Mục Tử, nhân lành vẫn hoạt động trong họ, vẫn là nguồn sống của họ, vẫn làm họ sinh trái?

Để giải quyết vấn nạn ấy, phần Đức Giêsu, Người đã rửa chân cho họ, đã ban cho họ lệnh truyền rửa chân cho nhau; đã lập bí tích Thánh Thể và ra lệnh cho họ hãy làm mà nhớ đến Người. Nói theo kiểu nối kết hệ thống truyền thông mạng thì Đức Giêsu trước khi về Nhà Cha đã cung cấp cho chúng ta “wifi” tuyệt hảo, miễn phí, đã cung cấp cho chúng ta “máy di động” đầy đủ chức năng, công suất. Vấn đề còn lại nằm ở phía con người:

Có chịu mở thiết bị đã được Chúa cung cấp, cài đặt chương trình? Có chịu truy cập vào các địa chỉ, các “trang xã hội”… đã được Thiên Chúa đăng tải một cách phong phú, hiệu quả. Chúng ta có chịu mỗi ngày “nối mạng” nói chuyện với Chúa hay không? Ai thường sử dụng nối mạng thì đều quá rõ rằng cần phải tuân thủ một số quy tắc, cú pháp một cách nghiêm ngặt thì cuộc nối mạng mới thành công. Tạm dùng hình ảnh so sánh đó để dẫn chúng ta tời lời nài van của Đức Giêsu nhằm giúp các môn đệ hiệp thông với Người: “anh em hãy Ở LẠI TRONG tình thương của Thầy!” (Ga 15,9). Tuần trước chúng ta đã suy niệm nhiều về “Ở LẠI TRONG = Mê nô”. Tuần này, Đức Giêsu đề nghị chúng ta một ứng dụng cụ thể của “ở lại trong”.

  1. “Ở lại trong” tức là “giữ các điều răn” (Ga 15,10)

Khi nghe nói “giữ các giới răn”, người ta thường có cái nhìn thiếu thiện cảm vì còn coi luật chỉ là những điều khoản trói buộc, là gánh nặng chất lên vai… (x.Mt 23,4). Sở dĩ vậy là vì con người thiếu hiểu biết lề luật, cũng như không có động lực bên trong thúc đẩy giữ luật. Còn ở đây, cội nguồn của giữ điều răn là TÌNH YÊU PHÁT XUẤT từ Thiên Chúa: “Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14,31) và khi giữ điều răn của Cha thì Đức Giêsu ở trong Cha (Ga 15,10b). Vậy đối với môn đệ giữ điều răn là cách biểu lộ tình yêu và muốn ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu. Với tình yêu, việc giữ luật trở thành niềm vui (Ga 15,11), trở thành con đường ngắn nhất và chắc chắn đưa tín hữu tới chỗ hiệp thông, ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu.

Thật vậy chúng ta có thể minh họa tầm quan trọng của việc giữ luật, lệnh truyền trong mối liên hệ hiệp thông bằng một hình ảnh vay mượn từ thế giới công nghệ thông tin: để liên hệ với một ai đó tôi phải:

– Biết rõ các địa chỉ giao dịch của người đó.

– Nhập các dữ liệu vào phải đúng nghiêm ngặt từng chi tiết.

– Tuyệt đối tôn trọng theo đúng các chỉ dẫn, nếu có…

Khi chúng ta tuân thủ, thực hiện đúng khít khao, tuyệt đối mọi chi tiết đó để mở ra được, hiệp thông được với địa chỉ ta mong ước thì không ai nói đó là “trói buộc”, “gánh nặng” cả; Trái lại khi thực hiện đúng thì đó còn là niềm vui, hạnh phúc nữa. Và một khi trang mạng đã mở ra được một lần rồi thì những lần sau, việc tuân thủ đúng cú pháp là con đường ngắn nhất, chắc chắn nhất để nối kết hiệp thông. Và một khi đã thích nhau rồi, càng muốn giữ vững nối kết thì phải càng tôn trọng các lệnh của nhau.

Vậy giữ luật cách nghiêm túc để hiệp thông, ở lại trong nhau là dấu chỉ của tình yêu, là điều kiện tốt nhất, ưu việt nhất để gặp gỡ, hiệp thông với nhau, để gặp được tình yêu. “Giữ giới răn” theo ý Đức Giê su không là bị nhốt vào cái khung kỷ luật mà là sự nhập tâm các lệnh truyền của Chúa thành phản xạ tự nhiên trong bản thân mình giúp bản thân vững chắc không bị lệch hướng dù nhiều sóng gió vây quanh tư bề.

  1. Điều răn đó là: Hãy yêu mến nhau NHƯ Thầy đã yêu thương anh em (Ga 15,12.17): “Yêu mến nhau” đó không phải là một việc, một quy định phải làm, mà là một tương quan phải thiết lập và duy trì. Chính mối tương quan này sẽ hướng dẫn trọn cuộc đời, lẽ sống của kẻ tin. Cái nguy cơ tiềm ẩn của “hãy yêu nhau” là con người lấy tình yêu cảm tính của mỗi cá nhân làm chuẩn. Đức Giêsu phải nói rõ: tình yêu đó phải bắt nguồn từ Đức Giêsu như cành nho “ở lại trong” thân nho và do đó tình yêu của tín hữu phải có đặc nét: yêu NHƯ Thầy đã yêu anh em.

  2. Tình yêu đó là hy sinh tính mạng cho bạn hữu mình (Ga 15,13)

Tình Đức Giêsu yêu ta không làm thiệt thòi gì nơi ta mà còn nâng ta lên là “bạn hữu của Người” (Ga 15,15), được Người cho thông hiệp vào dự tính cứu độ của Thiên Chúa như là một cộng tác viên, như là một bạn hữu. Và dấu chỉ của tình bạn hữu đó là dám hy sinh mạng sống cho nhau.

Cần lưu ý: Đức Giêsu hy sinh mạng sống không để cứu mạng sống ta. Điều đó là vô ích, vì có cứu được một lần như Ladarô thì rốt cuộc cũng chỉ sống chừng một trăm năm. Đức Giêsu hy sinh mạng sống là để ta ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ, để nhân loại được hồi phục phẩm giá là “hình ảnh Thiên Chúa” và sẽ được nâng lên hàng bạn hữu và cuối cùng là anh em với Đức Giêsu, là con Cha (Ga 20,17).

  1. Niềm vui (Ga 15,11): Tất cả những gì Đức Giêsu mặc khải cho môn đệ ở đây là “lời di chúc”. Cái chết và phục sinh của Người là bảo chứng rằng những mặc khải ấy phải được thực hiện. Với Thập Giá và Phục Sinh của Đức Giêsu, từ nay Tình Yêu Cha – Tình Yêu Con – Tình Yêu của các tín hữu sẽ hiệp thông mật thiết với nhau và sinh hoa trái tốt. Từ nay đối với tín hữu luật không còn là gánh nặng nữa mà là “ách êm ái nhẹ nhàng” (x.Mt 11,28-30). Hiểu được ý nghĩa của các biến cố rồi, cuộc đời kẻ tin dù gì đi nữa sẽ là NIỀM VUI (x.Ga 16,20-22). Đó là NIỀM VUI CỦA THẦY, Niềm Vui được hiệp thông vĩnh viễn vào tương quan “ở lại trong” giữa Cha – Đức Giêsu và môn đệ.

  2. Sự hiệp thông và niềm vui trong bài đọc một:

Trong bài đọc một của Chúa Nhật VI B Mùa Phục Sinh, hồng ân hiệp thông được mở rộng ra cho cả dân ngoại.

* Sự hiệp thông đó là Thánh Ý Thiên Chúa: hai thị kiến (Cv 10,3-8 và 10,9-20).

* Phêrô và Cornêliô đã tuân phục đường lối Chúa qua việc để cho Chúa cắt tỉa đi những cành khô chết nơi họ để rồi đón nhận nhau (Cv 10,25-27).

* Phêrô công bố tính phổ quát và bình đẳng của ơn cứu độ do Đức Giêsu mang tới (Cv 10,34): điều kiện để được hiệp thông vào dân mới của Chúa không còn hạn hẹp trong yếu tố huyết thống, chủng tộc mà là sự gắn kết với Thiên Chúa qua một cuộc sống đạo đức, phù hợp với ý Chúa như đã được mặc khải trong tâm hồn nhân loại: ăn ở ngay lành, kính sợ Thiên Chúa, thực hành sự công chính (Cv 10,35). Tất cả những yếu tố đó đều là hồng ân dọn đường chuẩn bị đón nhận đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh được dân mới lưu truyền. (x.Cv 10,36-43).

* Dấu chỉ quyết định đưa tới hiệp thông đến từ TRỜI, từ Chúa Thánh Thần: Người hiện xuống trên dân ngoại với những hồng ân như đã thực hiện cho các tông đồ (Cv 10,44-46). Nhận ra dấu chỉ Thánh Ý Chúa, Phêrô và cộng đoàn dân Chúa đi theo ông đã đón nhận dân ngoại chấp nhận hiệp thông với họ, cho họ ở lại trong cộng đoàn qua phép rửa ( Cv 10,47).

* Kết cục là niềm vui trọn vẹn: Thánh Thần – tông đồ – Do Thái – dân ngoại hiệp thông với nhau, ở lại trong nhau: Phêrô đã phá rào cản để ở lại với dân ngoại ít ngày (Cv 10,48b). Mối hiệp thông mà Đức Giêsu đã thực thi (x.Ga 4,40-41) giờ đây được nối dài nơi Phêrô – Giáo Hội – dân ngoại. Nhờ sự hiệp thông, “ở lại trong” này mà Tin Mừng Phục Sinh tiếp tục được loan truyền cho đến tận thế.

Frère Pierre Đình Long FSC